ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU
NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 7
KHÓA XII
Nghị quyết
số 28-NQ/TW về “cải cách chính sách bảo hiểm xã hội”
Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về “cải
cách chính sách bảo hiểm xã hội góp phần bảo đảm an sinh xã hội, thức đẩy
tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền vững đất nước”. Đây là
Nghị quyết chuyên đề của Trung ương về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội,
nhằm cụ thể hóa mục tiêu Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra.
Một là, vì sao Ban Chấp hành Trung ương phải ban hành Nghị quyết về cải cách
chính sách bảo hiểm xã hội?
Hai là, bối cảnh cải cách chính sách bảo
hiểm xã hội.
Ba là, tình hình và nguyên nhân.
Bốn là, quan điểm, mục tiêu của Nghị
quyết và nội dung cải cách CSBHXH.
Năm là, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu.
I. VÌ SAO BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG PHẢI BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT VỀ CẢI CÁCH
CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI?
-
Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) bao gồm: bảo hiểm hưu trí - tử tuất; bảo hiểm thất nghiệp; bảo hiểm ốm đau, thai sản và bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp. Với vai trò là một trụ
cột chính của hệ thống an sinh xã hội luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm phát
triển và coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực đối với sự phát triển bền vững
đất nước cũng như thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Theo
thông lệ quốc tế trong xây dựng hệ thống chính sách BHXH đều tiến tới ba nguyên
tắc, đó là
(1)
Công bằng hướng tới mở rộng độ bao phủ của chính sách- mọi người lao động đều có thể tiếp cận,
tham gia và hưởng lợi từ chính sách BHXH;
(2)
Tuân thủ nguyên tắc đóng - hưởng và đảm bảo bền vững về tài chính - đảm bảo khả năng cân đối giữa mức đóng góp
và mức hưởng thụ từ hệ thống;
(3)
Có sự chia sẻ
giữa những thành viên tham gia vào hệ thống BHXH, chia sẻ giữa các chính sách
trong hệ thống.
-
Trong
suốt thời kỳ thực hiện đổi mới, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1995 đến nay, thực
hiện các Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, chính sách BHXH đã được thể chế hóa theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn về
chế độ, chính sách, về cơ ché quản lý, cơ chế tài chính nhưng vẫn tồn tại nhiều
hạn chế, bất cập.
-
Để đảm bảo các mục tiêu về an sinh xã hội, cần
có những cải cách trong thiết kế hệ thống và tổ chức thực hiện chính sách BHXH,
thực sự là một trụ cột chính của chính sách an sinh xã hội; góp phần thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo mọi người lao động đều được tiếp cận và
thụ hưởng quyền an sinh xã hội, chia sẻ thành quả phát triển kinh tế - xã hội;
tuân thủ nguyên tắc công bằng, bền vững tài chính và chia sẻ rủi ro của hệ
thống BHXH là vấn đề cấp thiết trước mắt cũng như lâu dài.
II. BỐI CẢNH
CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH
BHXH
- Cải cách chính sách
BHXH diễn ra trong bối cảnh cả nước đang tích cực triển khai thực hiện các chủ
trương lớn về phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần
thứ XII của Đảng như:
+
Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện 3
đột phá chiến lược; nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức
cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch
lao động; Nâng cao chất lượng an sinh, chủ động đối phó với các vấn đề xã hội
do già hóa dân số; Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo định hướng phát
triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế; Chủ
trương tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng đến năm 2021 giảm tối
thiểu 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2015;
đến năm 2025 tiếp tục giảm tối thiểu bình quân cả nước 10% đơn vị sự nghiệp
công lập và 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm
2021; Chủ trương về công tác dân số trong tình hình mới theo hướng phát huy tối
đa lợi thế cơ cấu dân số vàng, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước
nhanh, bền vững và thích ứng với già hóa dân số; xác định rõ trách nhiệm, nghĩa
vụ, quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động; tạo điều kiện thuận
lợi cho người lao động di cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng các dịch vụ xã
hội cơ bản; phát triển thị trường, đa dạng hóa các gói bảo hiểm, bao gồm bảo
hiểm nhà nước, bảo hiểm thương mại với nhiều gói dịch vụ khác nhau để các nhóm
dân số đặc thù đều bình đẳng trong tiếp cận, tham gia và thụ hưởng các dịch vụ
phúc lợi, an sinh xã hội;
-
Việt Nam đang ở trong giai đoạn dân số vàng nhưng cũng đã
bước sang giai đoạn già hóa dân số với tốc độ diễn ra khá nhanh và được coi là
nhanh nhất nếu so với các nước. Theo ước tính, năm 2017 số người cao tuổi (60
tuổi trở lên) chiếm 11% tổng dân số; con số này sẽ đạt 17% vào năm 2020 (chỉ
sau khoảng hơn 10 năm); đạt 25% vào năm 2050 (khi đó cứ 4 người dân có 1 người
từ 60 tuổi trở lên).
Bên
cạnh đó, thời gian chuẩn bị cho già hóa của Việt Nam rất ngắn. Theo báo cáo của
Ngân hàng thế giới: Thời gian chuẩn bị khi có 7% dân số là người cao tuổi từ 65
tuổi trở lên sang 14% dân số là người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên của Pháp là
115 năm; của Mỹ là 69 năm; của Trung Quốc là 25 năm; Thái Lan, Hàn Quốc,
Malaysia, Indonexia đều là khoảng 20 năm; riêng Việt Nam chỉ là khoảng 15 năm.
Già hóa dân số tác động trực tiếp đến thị trường lao
động, cả về quy mô, cơ cấu, loại hình việc làm và sự bền vững của các hệ thống
hưu trí. Tuổi thọ gia tăng đã đặt hệ thống chính sách BHXH trước những yêu cầu
cần phải cải cách mà trọng tâm là tính đến quan hệ giữa thời gian tham gia và
thời gian thụ hưởng.
-
Cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang là xu thế lớn trên toàn cầu, với động lực
là sự phát triển về khoa học - công nghệ. Trong quá trình hội nhập sâu rộng với
thế giới, Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều nhưng cũng chịu tác động sâu sắc khi
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thành hiện thực. Thị trường lao động sẽ gặp
những thách thức lớn về chất lượng, cung, cầu và cơ cấu lao động, làm thay đổi
lớn về quan hệ lao động. Xu hướng tự tạo việc làm và chuyển đổi quan hệ lao
động sang quan hệ kinh tế không có hợp đồng lao động (Uber, Grab, các kỹ sư tin
học lập trình...) sẽ gia tăng. Đây là một thách thức lớn đối với BHXH trong
cách thức tiếp cận và quản lý đối tượng tham gia và thụ hưởng, trong thực hiện
mở rộng diện bao phủ và trong cưỡng chế thi hành pháp luật BHXH. Cùng với đó là
quá trình dịch chuyển lao động quốc tế, gia tăng số lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài và số người nước ngoài vào Vỉệt Nam làm việc, đòi hỏi sự hoà
nhập về chính sách xã hội, đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn chung về an sinh xã
hội.
-
Quy mô của khu vực
phi chính thức ở Việt Nam còn lớn với đặc điểm là việc làm bấp bênh, thu nhập
thấp và không thường xuyên, thời gian làm việc kéo dài, điều kiện làm việc
không đảm bảo, thường không có hợp đồng lao động, không có BHXH, không tham gia
công đoàn, không có liên hệ nhiều với các khu vực khác của nền kinh tế và do đó
thường không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật lao động và bảo hiểm xã
hội.
Quá trình tái cấu
trúc nền kinh tế (chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu) và tăng
cường hội nhập đòi hỏi lực lượng lao động phải có chất lượng cao hơn; những lao
động không đáp ứng yêu cầu về trình độ, kỹ năng có nguy cơ bị mất việc làm ở
khu vực chính thức và phải tìm việc làm ở khu vực phi chính thức.
Bên cạnh đó, quá
trình đô thị hóa và hội nhập làm gia tăng các luồng di cư nội địa của lao động
nông nghiệp, lao động chưa qua đào tạo vào các khu đô thị, các thành phố lớn,
nếu không có những giải pháp và các chính sách an sinh xã hội, đặc biệt bảo
hiểm xã hội kịp thời, sẽ gây ra những hệ lụy về kinh tế, xã hội trước mắt cũng
như lâu dài.
-
Thực hiện cải cách
chính sách tiền lương đối với khu vực hành chính và sự nghiệp công dự kiến thay
đổi theo hướng thực hiện trả lương theo vị trí việc làm và bằng số tiền cụ thể
như đối với khu vực sản xuất kinh doanh, không còn mức lương cơ sở như hiện
nay. Trong khi đó, chính sách bảo hiểm xã hội hiện nay có nhiều nội dung gắn
với mức lương cơ sở (căn cứ tính mức đóng, căn cứ tính mức hưởng một số loại
trợ cấp) sẽ cần phải điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh tiền lương mới. Ngoài
ra, kinh tế trong nước còn khó khăn, nguồn lực ngân sách nhà nước hạn hẹp; thu
nhập của nhiều người dân còn thấp và chưa ổn định.
III.
TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1.
Ưu điểm
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước, sự nỗ lực của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các bộ, ngành,
các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và người lao động; sự hỗ
trợ, hợp tác hiệu quả của các quốc gia, tổ chức quốc tế, hệ thống chính sách,
pháp luật về BHXH đã không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, ngày càng phù hợp hơn
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần quan trọng vào
nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát
triển bền vững đất nước trong quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập quốc
tế. Cụ thể là:
Đã hình thành hệ thống chính sách BHXH khá
đồng bộ, bao quát hầu hết các chế độ BHXH theo thông lệ quốc té: Gồm cả loại
hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; đối với cả người có quan hệ lao động và
người không có quan hệ lao động; cho cả khu vực kinh tế chính thức và phi chính
thức.
Hệ thống chính sách BHXH, các quan hệ BHXH
được thiết kế, điều chỉnh và vận hành ngày càng phù hợp hơn.
Với vai trò chủ đạo của Nhà nước, sự tham
gia của người lao động và người sử dụng lao động, Quỹ BHXH đã trở thành quỹ an
sinh lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa những
người lao động cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH. Tổng số tiền chi
cho các chế độ hưu trí, tử tuất, mất sức lao động và trợ cấp hàng tháng khác
năm 2017 từ Quỹ BHXH là 132.140 tỷ đồng, tăng hơn 9 lần so với thời điểm ngày
01 tháng 01 năm 2007, là năm đầu tiên thực hiện Luật BHXH. Tổng số chi hưu trí,
tử tuất năm 2017 từ nguồn ngân sách nhà nước là 44.875 tỷ đồng, chỉ còn 25,35%
so với tỷ lệ 56,2% tại thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2007.
Diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp
luật và quy mô tham gia BHXH trên thực tế ngày càng được mở rộng. Tính đến năm
2017, tổng số người tham gia BHXH là 13,9 triệu người (trong đó: BHXH bắt buộc
là 13,6 triệu người, BHXH tự nguyện là 0,3 triệu người), tăng hơn 2,3 lần so
với thời điểm Luật BHXH số 71/2006/QH11 có hiệu lực (ngày 01 tháng 01 năm
2007); số người tham gia BHTN là 11,7 triệu người. Đến nay, đã và đang thực
hiện chế độ, chính sách cho trên 3 triệu người hưởng chế độ hưu trí, BHXH hàng
tháng. Trong năm 2017, có 9,1 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau, thai sản,
dưỡng sức phục hồi sức khỏe; 0,7 triệu lượt người hưởng chế độ trợ cấp thất
nghiệp; trên 56 nghìn người hưởng chế độ tai nạn, bệnh nghề nghiệp hàng tháng.
Mô hình tổ chức hệ thống BHXH với việc tách
cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan tổ chức thực hiện chính sách về cơ bản là
phù hợp với thông lệ quốc tế, đã phát huy được vai trò và tính hiệu quả trong
từng khâu thiết kế, xây dụng, hoạch định đến tổ chức thực hiện chính sách, thu,
chi và quản lý Quỹ BHXH. Năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH
được tăng cường. Hệ thống pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật về BHXH
thường xuyên được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện; công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc chấp hành pháp luật BHXH được chú trọng hơn; công tác đối ngoại
và hội nhập quốc tế về BHXH được đẩy mạnh.
2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu quan trọng nêu trên, việc tổ chức thực hiện chủ trương đổi mới, nâng cao hiệu quả chính sách BHXH cũng còn nhiều hạn
chế, yếu kém như:
Diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật cũng như quy mô tham gia BHXH
trên thực tế còn thấp, chưa hướng đến bao phủ toàn dân. Hệ thống BHXH về cơ bản
còn thiết kế đơn tầng, sự kết nối giữa chính sách BHXH với các chính sách xã
hội khác chưa đồng bộ, chặt chẽ. BHXH bắt buộc còn bỏ sót một số nhóm đối tượng
có nhu cầu và có khả năng tham gia. Trên thực tế, năm 2017 vẫn còn trên 70%
chưa tham gia. Mục tiêu đến năm 2020 có 50% lực lượng lao động tham gia BHXH
theo Nghị quyết số 15-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 Khóa XI và Nghị quyết số
21-NQ/TW của Bộ Chính trị không đạt được. Các nguyên tắc công bằng, đóng -
hưởng, chia sẻ và bảo đảm bền vững tài chính chưa được quán triệt đầy đủ, quỹ
hưu trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong dài hạn, chính sách BHTN nặng
về giải quyết hậu quả khi người lao động thất nghiệp mà chưa chú ý thỏa đáng đến
phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp.
Còn có sự không công bằng trong công thức
tính lương hưu giữa nam và nữ, giữa lao động khu vực Nhà nước và khu vực ngoài
Nhà nước, việc thể chế hóa nguyên tắc này còn chậm (Luật BHXH năm 2014 quy định người lao động
trong khu vực Nhà nước khi nghỉ hưu, tính bình quân toàn bộ quá trình đóng BHXH
như người lao động khu vực ngoài Nhà nước. Tuy nhiên, quy định này chỉ áp dụng
đối với những người bắt đầu tham gia BHXH từ năm 2025. Như vậy, người lao động
trong khu vực Nhà nước sớm nhất tính bình quân toàn bộ quá trình đóng BHXH là
người nghỉ hưu từ năm 2045), tổ chức thực hiện còn vướng mắc (Điều 60, khoản 2 Điều 56 và khoản 2 Điều 74
của Luật BHXH năm 2014).
Thiết kế CSBH hưu trí nhiều điểm chưa phù hợp:
(i)
Quy định thời gian tham gia BHXH để được hưởng lương hưu quá dài (20 năm) trong
khi điều kiện hưởng BHXH một lần khá dễ dàng (Theo quy định hiện hành, NLĐ sau một năm nghỉ việc, nếu có nhu cầu thì
được nhận BHXH một lần), mức hưởng BHXH một lần cao (Mức hưởng BHXH một lần ở Việt Nam tính trên cả phần đóng góp của người
lao động và người sử dụng lao động, trong khi kinh nghiệm của các nước khi cho
nhận BHXH một lần chỉ được nhận phân đóng góp của người lao động mà không được
nhận phần đóng góp của người sử dụng lao động);
(ii)
Công thức tính lương hưu thiết kế chưa hợp lý, nặng về nguyên tắc đóng hưởng,
chưa chú ý thỏa đáng nguyên tắc chia sẻ để thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa
những người hưởng lương hưu (Cách tính
lương hưu ở Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào tiền lương trong quá khứ của cá
nhân người lao động dẫn đến người đi làm có lương cao thì khi nghỉ hưu nhận
được lương hưu cao và ngược lại. Tính đến cuối năm 2017, người có lương hưu cao
nhất ờ nước ta là hơn 100 triệu đồng/tháng; người có lương hưu thấp nhất là 1,3
triệu đồng/tháng. Lương hưu tại một số nước, chẳng hạn như Hàn Quốc và Trung
Quốc được tính dựa trên hai yếu tố là lương của bản thân người lao động và
lương của những người cùng thế hệ. Điều này dẫn đến người có tiền lương khi đi
làm thấp, khi nghỉ hưu vẫn được chia sẻ để có một mức lương hưu khấm khá hơn);
(iii)
số người hưởng chế độ hưu trí, tử tuất tăng nhanh, số người mới tham gia tăng
chậm (Năm 1996, có 217 người đang đóng
BHXH thì chỉ có 1 người đang hưởng chế độ hưu trí; năm 2006 tỷ lệ này là 12,6/1
và năm 2016 là 8,5/1), số người hưởng BHXH một lần cao (Trong giai đoạn 2012 -2017, mỗi năm bình quân có 628 nghìn người hưởng
BHXH một lần dẫn đến số người tham gia BHXH tăng thêm chi là 594 nghìn người;
tức là cứ có 2 người mới tham gia vào BHXH thì có 1 người rời khỏi hệ thống);
mức hưởng lương hưu cao và thời gian hưởng quá dài trong mối tương quan với mức
đóng và thời gian đóng. Tuổi thọ bình quân tăng nhanh nhưng tuổi nghỉ hưu được
quy định từ năm 1960, đến nay đã gần 60 năm vẫn không thay đổi tạo áp lực cho
khả năng cân đối của Quỹ. BHTN chưa thực sự trở thành công cụ quản trị thị
trường lao động. Chính sách BHTN chú trọng các giải pháp giải quyết hậu quả
thông qua hỗ trợ người lao động nhận TCTN, đào tạo đáp ứng yêu cầu của công
việc mới, giới thiệu việc làm mà chưa chú ý thỏa đáng đến các giải pháp phòng
ngừa như hỗ trợ doanh nghiệp duy trì việc làm, tránh sa thải lao động, thu hút
lao động thất nghiệp dài hạn khó tìm việc làm... như thông lệ các nước (Chính sách BHTN của các nước đều thiết kế
các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp để duy trì việc làm, tránh sa thải lao động,
thu nhận lao động thất nghiệp dài ngày khó tìm việc làm, hỗ trợ doanh nghiệp
các dự án tuyển dụng lao động mới ở khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao... để giảm
thất nghiệp; chính sách hỗ trợ người lao động thất nghiệp nhận trợ cấp thất
nghiệp, học nghề, chuyển đổi việc làm. Kết hợp cả phòng ngừa, giảm thiểu và
giải quyết hậu quả thất nghiệp là mục tiêu chung trong chính sách BHTN theo
thông lệ của các nước. Thiếu sự tham gia của doanh nghiệp thì không thể giải
quyết bài toán thất nghiệp).
-
Chưa thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập với
tiền lương của người đang làm việc (theo Kết luận số 63-KL/TW ngày 27 tháng 5
năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI và Luật Bảo hiểm xã hội). Việc điều chỉnh tiền lương hưu thời gian qua thường được
tiến hành đồng thời với điều chỉnh tiền lương khu vực hành chính nhà nước, mức
tăng thường bằng mức tăng của tiền lương khu vực hành chính nhà nước, làm tăng
chi cả từ ngân sách nhà nước (Theo quy
định của Luật BHXH thì NSNN bảo đảm kinh phí chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH
đối với những người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH trước ngày 01 tháng 01 nãm
1995. Tổng kinh phí chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH từ ngân sách nhà nước năm
2017 là gần 45 nghìn tỷ đồng, trong đó chi cho điều chỉnh lương hưu, trợ cấp
BHXH hàng tháng khoảng 1,5 nghìn tỷ đồng) và Quỹ BHXH, tạo ra những bất hợp
lý mới như người có mức lương hưu cao được tăng quá nhiều, người có mức lương
hưu thấp được tăng quá ít dẫn đến gia tăng khoảng cách tuyệt đối về mức lương
hưu giữa những người đang hưởng càng lớn (Tính
đến cuối năm 2017, có khoảng 2,38 triệu người đang hưởng lương hưu, trong đó có
hơn 210 nghìn người (chiếm 9%) có lương hưu dưới 2,5 triệu đồng/tháng; có gần
350 nghìn người (chiếm 15%) có lương hưu trên 6 triệu đồng/tháng).
-
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước còn hạn
chế. Thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của
cấp ủy, chính quyền các cấp. Chưa thực hiện giao chỉ tiêu phát triển đối tượng
BHXH cho các địa phương; sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan Kế
hoạch - Đầu tư, Tài chính (Thuế), Lao động - Thương binh và Xã hội với cơ quan
BHXH còn chưa chặt chẽ.
Tình trạng vi phạm pháp luật, trốn đóng, nợ
đóng BHXH, nhất là khu vực doanh nghiệp vẫn còn khá phổ biến (Ước tính cả nước đến cuối năm 2017 đang có
hơn 600.000 doanh nghiệp hoạt động nhưng chỉ có 228.552 doanh nghiệp (chỉ bằng
38% số doanh nghiệp đang hoạt động) đóng BHXH), chậm được khắc phục.
Nợ đóng BHXH còn lớn (Tổng số nợ BHXH có tính lãi tính đến ngày 31 tháng 12 nãm 2017 là
5.973 tỷ đồng, trong đó, nợ BHXH bắt buộc là 5.737 tỷ đồng, nợ BHTN là 236 tỷ
đồng).
Xuất hiện tình trạng trục lợi từ Quỹ BHXH;
doanh nghiệp và người lao động thỏa thuận không đóng hoặc giảm mức đóng vào Quỹ
BHXH. Các chế tài xử lý vi phạm pháp luật BHXH còn chưa đủ mạnh và thực thi
chưa nghiêm. Việc giao công đoàn khởi kiện doanh nghiệp nợ BHXH hiệu quả không
cao và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế (Các
nước thường xử phạt nợ đóng, trốn đóng BHXH rất nặng; không giao Công đoàn khởi
kiện vì một số trường hợp người lao động chưa phải là đoàn viên công đoàn nên
không thể ủy quyền).
-
Tổ chức thực hiện
chính sách BHXH, BHTN còn nhiều hạn chế. Cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và
nhân sự của bộ máy thực hiện BHTN còn bất hợp lý, phụ thuộc vào ngân sách nhà
nước, chưa phù hợp với nguyên lý bảo hiểm và thông lệ quốc tế nhưng chậm được
sửa đổi, chưa phát huy được các chức năng tích cực của chính sách. BHTN chưa
thực sự hỗ trợ được người lao động và doanh nghiệp rút ngắn thời gian tìm việc,
thời gian tuyển người, chưa hỗ trợ được mục tiêu duy trì và mở rộng diện bao
phủ BHXH, chưa bảo vệ hiệu quả việc làm cho lao động trong nước.
Nhận thức của một bộ phận người lao động và
người sử dụng lao động về vai trò, tác dụng của BHXH chưa đầy đủ. Công tác
thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật chưa có những đổi mới
mạnh mẽ để mang lại hiệu quả tốt hơn về phát triển đối tượng, tạo niềm tin vững
chắc để thu hút người lao động tham gia hệ thống BHXH.
3. Nguyên nhân
Những hạn chế,
yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:(i)
Chính sách BHXH của nước ta mới đựợc hình thành và phát triển cùng với quá
trình chuyển đổi mô hình kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi tư duy, lý luận - nhận thức về
BHXH cần quá trình từng bước hoàn chỉnh; năng lực thiết kế hệ thống còn hạn
chế. Việc hình thành, hoàn thiện chính sách BHXH đòi hỏi thời gian dài trong
khi chúng ta mới thực hiện được hơn 20 năm. Vì vậy, việc xây dựng chính sách,
pháp luật, thiết kế bộ máy tổ chức thực hiện BHXH còn lúng túng, thiếu nhất
quán, chưa đồng bộ. (ii) Đặc trưng cơ cấu lao động ở nước ta là phần lớn làm
việc ở khu vực không có quan hệ lao động. Thu nhập của số đông người dân còn
thấp và không ổn định, áp lực chi tiêu trước mắt lớn. Mạng lưới an sinh xã hội
phi chính thức dựa trên mô hình gia đình truyền thống còn phổ biến. Do đó,
không ít người dân chưa quan tâm tham gia BHXH. (iii) Năng lực xây dựng và tổ
chức thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về BHXH nhiều mặt
còn hạn chế. Nhận thức còn chưa đầy đủ, sâu sắc, chưa coi công tác này là một
trụ cột trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Khả năng phân tích, dự báo
còn bất cập. Chưa làm tốt công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn và kiểm tra, giám
sát, xử lý vi phạm, (iv) Công tác thông tin, truyền thông chưa được chú trọng.
Nhận thức về BHXH trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
các chủ thể tham gia BHXH còn nhiều hạn chế, nhất là ý thức về quyền lợi, trách
nhiệm đóng góp BHXH của người sử dụng lao động và người lao động.
IV. QUAN ĐIỂM CHỈ
ĐẠO, MỤC TIÊU CỦA NGHỊ QUYẾT VÀ NỘI DUNG CẢI CÁCH CSBHXH
1. Quan điểm
(1)
BHXH là một trụ cột
chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tién bộ, công bằng xã hội, bảo đảm
ổn định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước.
-
Phát triển hệ thống CSBHXH linh hoạt, đa dạng,
đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế; huy động các nguồn lực xã hội theo truyền
thống tương thân tương ái của dân tộc; hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp hài hoà các nguyên tắc
đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững.
(2)
Cải cách CSBHXH vừa
mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài; kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn
định với đổi mới, phát triển và phải đặt trong mối tương quan với đổi mới, phát
triển các chính sách xã hội khác, nhất là chế độ tiền lương, thu nhập, trợ giúp
xã hội để mọi công dân đều được bảo đảm an sinh xã hội.
(3)
Phát triển hệ thống
tổ chức thực hiện CSBHXH bảo đảm tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại,
nâng cao tính hấp dẫn, củng cố niềm tin và sự hài lòng của người dân cũng như
các chủ thể tham gia bảo hiểm xã hội.
(4)
Thực hiện tốt
CSBHXH là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp uỷ
đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội,
doanh nghiệp và của mỗi người dân.
2. Mục tiêu
a) Mục tiêu
tổng quát:
Cải cách chính sách
bảo hiểm xã hội để bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an
sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng
tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh
hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng -
hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Nâng cao năng lực, hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển hệ thống thực hiện chính sách bảo hiểm
xã hội tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, tin cậy và minh bạch.
b) Mục tiêu cụ thể
-
Giai đoạn đến năm
2021, phấn đấu có khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH
(trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội
tự nguyện chiếm khoảng 1% lực lượng lao động trong độ tuổi); đến năm 2025 có
khoảng 45% (trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia
BHXHTN chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ tuổi) và đến 2030 có
khoảng 60% (trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia
BHXHTN khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi).
-
Giai đoạn đến năm
2021, phấn đấu có khoảng 45% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương
hưu, BHXH hàng tháng và trợ cấp xã hội (lương hưu xã hội); đến năm 2025 có
khoảng 55% và đến 2030 có khoảng 60%.
- Giai đoạn đến năm
2021, tỷ lệ giao dịch điện tử đạt 100%. Thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức
độ 4. Phấn đấu giảm số giờ giao dịch giữa cơ quan BHXH với doanh nghiệp bằng
mức ASEAN 4.
-
Giai đoạn đến năm
2021, phấn đấu chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia BHXH đạt mức
80%; đén năm2025 đạt mức 85% và đến 2030đạt mức 90%.
3. Nội dung cải
cách
Qua tổng kết lý luận và thực tiễn phát
triển bảo hiểm xã hội ở nước ta từ năm 1995 đến nay; kết quả nghiên cứu khảo
sát sâu rộng ở trong nước và ngoài nước với sự tham gia góp ý của nhiều cơ
quan, đơn vị, tổ chức, chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế đã làm rõ
những nội dung cơ bản về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội của nước ta trong
thời gian tới. Cụ thể là:
Thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để
mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn
dân; bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu
độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc,
thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ.
(1)
Xây
dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng
-
Trợ cấp hưu trí xã
hội: Ngân sách nhà nước cung cấp một khoản trợ cấp cho người cao tuổi không có
lương hưu, hoặc bảo hiểm xã hội hằng tháng. Có chính sách huy động các nguồn
lực xã hội đóng thêm để các đối tượng này có mức hưởng cao hơn; điều chỉnh giảm
dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội phù hợp với khả năng của ngân sách.
-
Bảo hiểm xã hội cơ
bản, bao gồm BHXH bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện: Bảo hiểm xã hội bắt
buộc (với các chế độ hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, ốm
đau, thai sản, thất nghiệp) dựa trên đóng góp của người lao động và người sử
dụng lao động. Bảo hiểm xã hội tự nguyện (với các chế độ hưu trí, tử tuât hiện
nay, từng bước mở rộng sang các chế độ khác) dựa trên đóng góp của người lao
động không có quan hệ lao động; có sự hỗ trợ phù hợp từ ngân sách nhà nước cho
nông dân, người nghèo, người có thu nhập thấp, lao động khu vực phi chính thức
để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội; nâng cao ý thức, trách nhiệm của người
lao động đối với việc tự bảo đảm an sinh cho bản thân. Mở rộng diện bao phủ bảo
hiểm xã hội theo lộ trình điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu phù hợp từng thời kỳ.
-
Bảo hiểm hưu trí bổ
sung là chế độ hưu trí tự nguyện theo nguyên tắc thị trường, tạo điều kiện cho
người sử dụng lao động và người lao động có thêm sự lựa chọn tham gia đóng góp
để được hưởng mức lương hưu cao hơn.
(2)
Sửa
đỗi quy định về điều kiện thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu để hưởng
chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt đồng thời với việc điều chỉnh cách tính
lương hưu theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình
đẳng, chia sẻ và bền vững. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
sang các nhóm đối tượng khác,
Sửa đổi điều kiện
hưởng ché độ hưu trí theo hướng giảm dần số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu
để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống 15 năm, hướng tới còn 10 năm với
mức hưởng được tính toán phù hợp nhằm tạo điều kiện cho người lao động cao
tuổi, có số năm tham gia bảo hiểm xã hội thấp được tiếp cận và thụ hưởng quyền
lợi bảo hiểm xã hội. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, hoàn thiện cách tính lương hưu,
bảo đảm công bằng giữa nam và nữ, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà
nước, kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa người có mức
lương cao với người có mức lương thấp để thu hẹp khoảng cách về thu nhập trong
các đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Rà soát, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm
xã hội bắt buộc đổi với các nhóm chủ hộ kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp,
người quản lý, điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao động làm
việc theo chế độ linh hoạt.
(3)
Tăng
cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội cũng như tính linh
hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ
Nghiên cứu sửa đổi,
hoàn thiện CSBH thất nghiệp, chú trọng không chỉ các giải pháp xử lý hậu quả
thông qua việc chi trả trợ cấp thất nghiệp, đào tạo đáp ứng yêu cầu của công
việc mới, giới thiệu việc làm mà cần chú ý thoả đáng đến các giải pháp phòng
ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp thông qua việc hỗ trợ doanh nghiệp duy
trì sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm cho người lao động. Nghiên cứu thiết
kế các gói bảo hiểm xã hội tự nguyện ngắn hạn linh hoạt để người lao động có
nhiều sự lựa chọn tham gia và thụ hưởng. Mở rộng các chế độ bảo hiểm xã hội tự
nguyện, tạo điều kiện chuyển đổi thuận lợi giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và
BHXH bắt buộc, hướng tới chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với toàn bộ
người lao động có việc làm, có thu nhập và tiền lương khi có đủ điều kiện cần
thiết.
(4)
Cải
cách trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách nhằm củng cố niềm tin, tăng
mức độ hài lòng của người tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội
Xây dựng CSBHXH bảo
đảm sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa các nhóm đối tượng tham gia; tăng
cường sự chia sẻ giữa các nhóm đối tượng thụ hưởng nhằm khắc phục bất hợp lý,
chênh lệch quá lớn về mức hưởng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công
nghệ thông tin, đơn giản hoá các quy trình, thủ tục đăng ký, đóng, hưởng bảo
hiểm xã hội, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ bảo hiểm xã hội theo hướng
thân thiện, công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
(5)
Đẩy
nhanh quá trình gia tăng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội trong khu vực phi
chính thức
Đẩy mạnh phát triển
doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số 10- NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban
Chấp hành Trung ương khoá XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động
lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên
cứu thiết kế các gói bảo hiểm xã hội ngắn hạn với mức đóng, mức hưởng, phương
thức giao dịch phù hợp với người lao động trong khu vực phi chính thức.
(6)
Sửa
đổi, khắc phục các bất hợp lý về chế độ bảo hiểm hưu trí hiện nay theo hướng
linh hoạt hơn về điều kiện hưởng chế độ hưu trí, chặt chẽ hơn trong quy định hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một
lần, tăng tuổi nghỉ hưu bình quân thực tế của người lao động
Có quy định phù hợp
để giảm tình trạng hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo hướng tăng quyền lợi nếu
bảo lưu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ hưu trí, giảm quyền
lợi nếu hưởng bảo hiểm xã hội một lần. Sửa đổi các quy định để khuyến khích
người lao động tham gia bảo hiểm xã hội thời gian dài hơn, từng bước tăng tuổi
nghỉ hưu bình quân, tăng tỉ lệ giảm trừ tiền lương hưu đối với người lao động
muốn nhận chế độ hưu trí sớm.
(7)
Thực
hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình
Điều chỉnh tuổi
nghỉ hưu cần có tầm nhìn dài hạn và có lộ trình phù hợp với tăng trưởng kinh
tế, giải quyết việc làm, thất nghiệp; không gây tác động tiêu cực đến thị
trường lao động; bảo đảm số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số; bình đẳng giới;
cân đối Quỹ BHXH trong dài hạn; xu hướng già hoá dân số; tính chất, loại hình
lao động và giữa các ngành nghề, lĩnh vực.
Từ năm 2021, thực
hiện điều chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu tăng tuổi nghỉ hưu chung, thu hẹp
dần khoảng cách về giới trong quy định tuổi nghỉ hưu; đối với những ngành nghề
đặc biệt, người lao động được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với
tuổi nghỉ hưu chung.
(8)
Sửa
đỗi các quy định về mức đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để đạt mục
tiêu mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội
Sửa đổi quy định về
căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của khu vực doanh nghiệp ít nhất bằng khoảng 70%
tổng tiền lương và các khoản thu nhập khác có tính chất lương của người lao
động để khắc phục tình trạng trốn đóng, đóng không đủ bảo hiểm xã hội, ảnh
hưởng đến khả năng cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội và quyền lợi của người lao động.
Nghiên cứu điều
chỉnh tỉ lệ đóng vào Quỹ bảo hiểm xã hội theo hướng hài hoà quyền lợi giữa
người sử dụng lao động và người lao động.
(9)
Điều
chỉnh tỉ lệ tích lũy để đạt tỉ lệ hưởng lương hưu tối đa phù hợp với thông lệ
quốc tế
Sửa đổi cách tính
lương hưu theo hướng giảm tỉ lệ tích luỹ, bảo đảm khả năng cân đối quỹ hưu trí
trong dài hạn, phù hợp với thông lệ quốc tế. Có lộ trình điều chỉnh kéo dài
thời gian tham gia bảo hiểm xã hội thực tế, bảo vệ quyền lợi của người hưởng chế
độ hưu trí theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng và chia sẻ phù hợp.
(10) Đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội
theo nguyên tắc an toàn, bền vững, hiệu quả
Tăng cường công tác
đánh giá, dự báo tài chính, hiệu quả đầu tư các quỹ bảo hiểm xã hội; đa dạng
hoá danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền
vững và hiệu quả; ưu tiên đầu tư vào trái phiếu chính phủ, nhất là trái phiếu
chính phủ dài hạn; nghiên cứu từng bước mở rộng sang các lĩnh vực có khả năng
sinh lời cao, từng bước và có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của Quỹ
thông qua uỷ thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế bảo đảm an toàn,
bền vững.
(11)
Thực
hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương
của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hưởng
chia sẻ
Thực hiện điều
chỉnh trợ cấp hưu trí xã hội theo khả năng cân đối của ngân sách nhà nước;
lương hưu cơ bản được điều chỉnh chủ yếu dựa trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá
tiêu dùng, khả năng của Quỹ bảo hiểm xã hội và ngân sách nhà nước; quan tâm
điều chỉnh thoả đáng đối với nhóm đối tượng có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu
trước năm 1995 nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch lương hưu giữa người nghỉ
hưu ở các thời kỳ.
Trải qua các giai đoạn phát triển, chính
sách BHXH đã đạt được những kết quả tích cực, đồng thời cũng đặt ra những vấn
đề lớn cần phải cải cách, điều chỉnh nhiều nội dung để khắc phục những hạn chế,
yếu kém, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với xu hướng phát triển và bối cảnh
mới. Căn cứ vào vào các nội dung cơ bản về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội
của nước ta và để đạt được các mục tiêu nêu trên, trong những năm tới cần thực
thiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
(1)
Tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, nâng
cao nhận thức về chính sách bảo hiểm xã hội
Cấp uỷ đảng, chính
quyền các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền; đổi
mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo
hiểm xã hội để cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ sự cần thiết, lợi ích, vai
trò, ý nghĩa và những nội dung cơ bản của cải cách chính sách bảo hiểm xã hội
đối với bảo đảm an sinh xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo
sự đồng thuận, thống nhất trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.
(2)
Hoàn
thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm, BHXH
Thể chế hoá các chủ
trương và hoàn thiện pháp luật, chính sách về bảo hiểm xã hội phải kết hợp với
hoàn thiện pháp luật, chính sách về chế độ tiền lương, việc làm, chính sách
người có công với cách mạng và các chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực có
liên quan khác.
Sửa đổi, bổ sung
pháp luật về bảo hiểm xã hội theo hướng tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội toàn
dân; thiết kế hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng; hoàn thiện các quy định về đóng
- hưởng bảo hiểm xã hội, bảo đảm các nguyên tắc công bằng, bình đẳng, chia sẻ
và bền vững. Rà soát, sửa đổi các quy định về người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài, người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam tham gia bảo hiểm
xã hội bắt buộc, gắn với việc đẩy mạnh đàm phán, ký kết hiệp định song phương
về bảo hiểm xã hội.
Sửa đổi, bổ sung
chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách việc làm theo hướng hỗ trợ doanh
nghiệp và người lao động duy trì việc làm, bảo đảm quyên lợi chính đáng của
doanh nghiệp và người lao động, khăc phục tình trạng gian lận, trục lợi bảo
hiêm thât nghiệp. Có quy định cụ thê và cơ chê quản lý chặt chẽ việc đầu tư Quỹ
bảo hiểm xã hội, bảo đảm việc đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội an toàn, bền vững,
hiệu quả.
Hoàn thiện các chế
tài xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, nhất là đối với các hành vi
trốn đóng, nợ đóng, trục lợi bảo hiểm xã hội theo hướng cơ quan quản lý nhà
nước về bảo hiểm xã hội và cơ quan quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội có thẩm quyền xử
phạt các doanh nghiệp trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi bảo hiểm xã hội;
đồng thời, các doanh nghiệp và người lao động có quyền khiếu nại, hoặc khởi
kiện cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội nếu phát
hiện có sai phạm trong thực hiện chính sách BHXH.
(3)
Nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH
Nâng cao năng lực,
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội, nhất là trong việc
hoạch định chiến lược phát triển, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo
hiểm xã hội. Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và địa phương trong
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, kịp thời xử lý
những khó khăn, vướng mắc phát sinh.
Nâng cao tính tuân
thủ pháp luật về bảo hiểm xã hội thông qua thực hiện đồng bộ các biện pháp hành
chính, kinh tế, tư pháp để tăng số người tham gia bảo hiểm xã hội, đi đôi với
chú trọng tăng số người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội, đặc biệt là chế độ
hưu trí. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp
luật về bảo hiểm xã hội, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, nhất
là các hành vi trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi tiền bảo hiểm xã hội.
Sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để đẩy mạnh việc phân cấp cho các cơ
quan BHXH; thực hiện giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH cho các
địa phương; phân định rõ quản lý nhà nước với quản trị bộ máy tổ chức thực hiện
chính sách BHXH.
Tăng cường công tác
phối hợp, chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu giữa cơ quan quản lý nhà nước vê
đâu tư, tài chính, thuê, lao động đê nâng cao hiệu quả quản lý đối tượng tham
gia BHXH và thực thi chính sách BHXH. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về BHXH. Xây dựng cơ sở dữ liệu về
BHXH, bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng cung ứng
dịch vụ của cơ quan BHXH.
(4)
Nâng
cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chỉnh sách bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm thất nghiệp
Hoàn thiện bộ máy
tổ chức thực hiện chính sách BHXH, bảo hiểm thất nghiệp theo đúng tinh thần của
Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu BCHTW khoá XII Một
số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt
động của Hội đông quản lý BHXH. Thực hiện chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán
và thông tin báo cáo về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
Đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên tất cả các
lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; hoàn thiện, đẩy mạnh kết nối cơ
sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm với các hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan
nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện chính sách và công tác nghiên cứu, hoạch
định chính sách. Tiếp tục hiện đại hoá quản lý bảo hiểm xã hội, đầu tư phát
triển công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Kịp thời ngăn chặn tình trạng gian lận, trục lợi
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
Triển khai có hiệu
quả các chính sách bảo hiểm thất nghiệp, phát huy đầy đủ các chức năng của bảo
hiểm thất nghiệp, bảo đảm bảo hiểm thất nghiệp thực sự là công cụ quản trị thị
trường lao động. Chi phí tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp lấy
từ nguồn Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, không lấy từ ngân sách nhà nước. Có cơ chế
tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, nhất
là trong bối cảnh thị trường lao động biến động nhanh chóng và cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ 4 đã và đang làm biến đổi cấu trúc của thị trường lao động.
(5)
Tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng trong hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách bảo
hiểm xã hội theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong phát triển
đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và tuân thủ các quy định của pháp luật về
bảo hiểm xã hội.
Phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong
giám sát, phản biện xã hội, tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện
tốt chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội.
VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN (không giới thiệu, nghiên cứu trong tài
liệu)./. ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU
NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 7
KHÓA XII
Nghị quyết
số 28-NQ/TW về “cải cách chính sách bảo hiểm xã hội”
Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về “cải
cách chính sách bảo hiểm xã hội góp phần bảo đảm an sinh xã hội, thức đẩy
tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền vững đất nước”. Đây là
Nghị quyết chuyên đề của Trung ương về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội,
nhằm cụ thể hóa mục tiêu Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra.
Một là, vì sao Ban Chấp hành Trung ương phải ban hành Nghị quyết về cải cách
chính sách bảo hiểm xã hội?
Hai là, bối cảnh cải cách chính sách bảo
hiểm xã hội.
Ba là, tình hình và nguyên nhân.
Bốn là, quan điểm, mục tiêu của Nghị
quyết và nội dung cải cách CSBHXH.
Năm là, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu.
I. VÌ SAO BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG PHẢI BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT VỀ CẢI CÁCH
CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI?
-
Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) bao gồm: bảo hiểm hưu trí - tử tuất; bảo hiểm thất nghiệp; bảo hiểm ốm đau, thai sản và bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp. Với vai trò là một trụ
cột chính của hệ thống an sinh xã hội luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm phát
triển và coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực đối với sự phát triển bền vững
đất nước cũng như thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Theo
thông lệ quốc tế trong xây dựng hệ thống chính sách BHXH đều tiến tới ba nguyên
tắc, đó là
(1)
Công bằng hướng tới mở rộng độ bao phủ của chính sách- mọi người lao động đều có thể tiếp cận,
tham gia và hưởng lợi từ chính sách BHXH;
(2)
Tuân thủ nguyên tắc đóng - hưởng và đảm bảo bền vững về tài chính - đảm bảo khả năng cân đối giữa mức đóng góp
và mức hưởng thụ từ hệ thống;
(3)
Có sự chia sẻ
giữa những thành viên tham gia vào hệ thống BHXH, chia sẻ giữa các chính sách
trong hệ thống.
-
Trong
suốt thời kỳ thực hiện đổi mới, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1995 đến nay, thực
hiện các Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, chính sách BHXH đã được thể chế hóa theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn về
chế độ, chính sách, về cơ ché quản lý, cơ chế tài chính nhưng vẫn tồn tại nhiều
hạn chế, bất cập.
-
Để đảm bảo các mục tiêu về an sinh xã hội, cần
có những cải cách trong thiết kế hệ thống và tổ chức thực hiện chính sách BHXH,
thực sự là một trụ cột chính của chính sách an sinh xã hội; góp phần thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo mọi người lao động đều được tiếp cận và
thụ hưởng quyền an sinh xã hội, chia sẻ thành quả phát triển kinh tế - xã hội;
tuân thủ nguyên tắc công bằng, bền vững tài chính và chia sẻ rủi ro của hệ
thống BHXH là vấn đề cấp thiết trước mắt cũng như lâu dài.
II. BỐI CẢNH
CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH
BHXH
- Cải cách chính sách
BHXH diễn ra trong bối cảnh cả nước đang tích cực triển khai thực hiện các chủ
trương lớn về phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần
thứ XII của Đảng như:
+
Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện 3
đột phá chiến lược; nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức
cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch
lao động; Nâng cao chất lượng an sinh, chủ động đối phó với các vấn đề xã hội
do già hóa dân số; Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo định hướng phát
triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế; Chủ
trương tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng đến năm 2021 giảm tối
thiểu 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2015;
đến năm 2025 tiếp tục giảm tối thiểu bình quân cả nước 10% đơn vị sự nghiệp
công lập và 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm
2021; Chủ trương về công tác dân số trong tình hình mới theo hướng phát huy tối
đa lợi thế cơ cấu dân số vàng, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước
nhanh, bền vững và thích ứng với già hóa dân số; xác định rõ trách nhiệm, nghĩa
vụ, quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động; tạo điều kiện thuận
lợi cho người lao động di cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng các dịch vụ xã
hội cơ bản; phát triển thị trường, đa dạng hóa các gói bảo hiểm, bao gồm bảo
hiểm nhà nước, bảo hiểm thương mại với nhiều gói dịch vụ khác nhau để các nhóm
dân số đặc thù đều bình đẳng trong tiếp cận, tham gia và thụ hưởng các dịch vụ
phúc lợi, an sinh xã hội;
-
Việt Nam đang ở trong giai đoạn dân số vàng nhưng cũng đã
bước sang giai đoạn già hóa dân số với tốc độ diễn ra khá nhanh và được coi là
nhanh nhất nếu so với các nước. Theo ước tính, năm 2017 số người cao tuổi (60
tuổi trở lên) chiếm 11% tổng dân số; con số này sẽ đạt 17% vào năm 2020 (chỉ
sau khoảng hơn 10 năm); đạt 25% vào năm 2050 (khi đó cứ 4 người dân có 1 người
từ 60 tuổi trở lên).
Bên
cạnh đó, thời gian chuẩn bị cho già hóa của Việt Nam rất ngắn. Theo báo cáo của
Ngân hàng thế giới: Thời gian chuẩn bị khi có 7% dân số là người cao tuổi từ 65
tuổi trở lên sang 14% dân số là người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên của Pháp là
115 năm; của Mỹ là 69 năm; của Trung Quốc là 25 năm; Thái Lan, Hàn Quốc,
Malaysia, Indonexia đều là khoảng 20 năm; riêng Việt Nam chỉ là khoảng 15 năm.
Già hóa dân số tác động trực tiếp đến thị trường lao
động, cả về quy mô, cơ cấu, loại hình việc làm và sự bền vững của các hệ thống
hưu trí. Tuổi thọ gia tăng đã đặt hệ thống chính sách BHXH trước những yêu cầu
cần phải cải cách mà trọng tâm là tính đến quan hệ giữa thời gian tham gia và
thời gian thụ hưởng.
-
Cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang là xu thế lớn trên toàn cầu, với động lực
là sự phát triển về khoa học - công nghệ. Trong quá trình hội nhập sâu rộng với
thế giới, Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều nhưng cũng chịu tác động sâu sắc khi
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thành hiện thực. Thị trường lao động sẽ gặp
những thách thức lớn về chất lượng, cung, cầu và cơ cấu lao động, làm thay đổi
lớn về quan hệ lao động. Xu hướng tự tạo việc làm và chuyển đổi quan hệ lao
động sang quan hệ kinh tế không có hợp đồng lao động (Uber, Grab, các kỹ sư tin
học lập trình...) sẽ gia tăng. Đây là một thách thức lớn đối với BHXH trong
cách thức tiếp cận và quản lý đối tượng tham gia và thụ hưởng, trong thực hiện
mở rộng diện bao phủ và trong cưỡng chế thi hành pháp luật BHXH. Cùng với đó là
quá trình dịch chuyển lao động quốc tế, gia tăng số lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài và số người nước ngoài vào Vỉệt Nam làm việc, đòi hỏi sự hoà
nhập về chính sách xã hội, đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn chung về an sinh xã
hội.
-
Quy mô của khu vực
phi chính thức ở Việt Nam còn lớn với đặc điểm là việc làm bấp bênh, thu nhập
thấp và không thường xuyên, thời gian làm việc kéo dài, điều kiện làm việc
không đảm bảo, thường không có hợp đồng lao động, không có BHXH, không tham gia
công đoàn, không có liên hệ nhiều với các khu vực khác của nền kinh tế và do đó
thường không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật lao động và bảo hiểm xã
hội.
Quá trình tái cấu
trúc nền kinh tế (chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu) và tăng
cường hội nhập đòi hỏi lực lượng lao động phải có chất lượng cao hơn; những lao
động không đáp ứng yêu cầu về trình độ, kỹ năng có nguy cơ bị mất việc làm ở
khu vực chính thức và phải tìm việc làm ở khu vực phi chính thức.
Bên cạnh đó, quá
trình đô thị hóa và hội nhập làm gia tăng các luồng di cư nội địa của lao động
nông nghiệp, lao động chưa qua đào tạo vào các khu đô thị, các thành phố lớn,
nếu không có những giải pháp và các chính sách an sinh xã hội, đặc biệt bảo
hiểm xã hội kịp thời, sẽ gây ra những hệ lụy về kinh tế, xã hội trước mắt cũng
như lâu dài.
-
Thực hiện cải cách
chính sách tiền lương đối với khu vực hành chính và sự nghiệp công dự kiến thay
đổi theo hướng thực hiện trả lương theo vị trí việc làm và bằng số tiền cụ thể
như đối với khu vực sản xuất kinh doanh, không còn mức lương cơ sở như hiện
nay. Trong khi đó, chính sách bảo hiểm xã hội hiện nay có nhiều nội dung gắn
với mức lương cơ sở (căn cứ tính mức đóng, căn cứ tính mức hưởng một số loại
trợ cấp) sẽ cần phải điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh tiền lương mới. Ngoài
ra, kinh tế trong nước còn khó khăn, nguồn lực ngân sách nhà nước hạn hẹp; thu
nhập của nhiều người dân còn thấp và chưa ổn định.
III.
TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1.
Ưu điểm
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước, sự nỗ lực của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các bộ, ngành,
các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và người lao động; sự hỗ
trợ, hợp tác hiệu quả của các quốc gia, tổ chức quốc tế, hệ thống chính sách,
pháp luật về BHXH đã không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, ngày càng phù hợp hơn
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần quan trọng vào
nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát
triển bền vững đất nước trong quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập quốc
tế. Cụ thể là:
Đã hình thành hệ thống chính sách BHXH khá
đồng bộ, bao quát hầu hết các chế độ BHXH theo thông lệ quốc té: Gồm cả loại
hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; đối với cả người có quan hệ lao động và
người không có quan hệ lao động; cho cả khu vực kinh tế chính thức và phi chính
thức.
Hệ thống chính sách BHXH, các quan hệ BHXH
được thiết kế, điều chỉnh và vận hành ngày càng phù hợp hơn.
Với vai trò chủ đạo của Nhà nước, sự tham
gia của người lao động và người sử dụng lao động, Quỹ BHXH đã trở thành quỹ an
sinh lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa những
người lao động cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH. Tổng số tiền chi
cho các chế độ hưu trí, tử tuất, mất sức lao động và trợ cấp hàng tháng khác
năm 2017 từ Quỹ BHXH là 132.140 tỷ đồng, tăng hơn 9 lần so với thời điểm ngày
01 tháng 01 năm 2007, là năm đầu tiên thực hiện Luật BHXH. Tổng số chi hưu trí,
tử tuất năm 2017 từ nguồn ngân sách nhà nước là 44.875 tỷ đồng, chỉ còn 25,35%
so với tỷ lệ 56,2% tại thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2007.
Diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp
luật và quy mô tham gia BHXH trên thực tế ngày càng được mở rộng. Tính đến năm
2017, tổng số người tham gia BHXH là 13,9 triệu người (trong đó: BHXH bắt buộc
là 13,6 triệu người, BHXH tự nguyện là 0,3 triệu người), tăng hơn 2,3 lần so
với thời điểm Luật BHXH số 71/2006/QH11 có hiệu lực (ngày 01 tháng 01 năm
2007); số người tham gia BHTN là 11,7 triệu người. Đến nay, đã và đang thực
hiện chế độ, chính sách cho trên 3 triệu người hưởng chế độ hưu trí, BHXH hàng
tháng. Trong năm 2017, có 9,1 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau, thai sản,
dưỡng sức phục hồi sức khỏe; 0,7 triệu lượt người hưởng chế độ trợ cấp thất
nghiệp; trên 56 nghìn người hưởng chế độ tai nạn, bệnh nghề nghiệp hàng tháng.
Mô hình tổ chức hệ thống BHXH với việc tách
cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan tổ chức thực hiện chính sách về cơ bản là
phù hợp với thông lệ quốc tế, đã phát huy được vai trò và tính hiệu quả trong
từng khâu thiết kế, xây dụng, hoạch định đến tổ chức thực hiện chính sách, thu,
chi và quản lý Quỹ BHXH. Năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH
được tăng cường. Hệ thống pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật về BHXH
thường xuyên được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện; công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc chấp hành pháp luật BHXH được chú trọng hơn; công tác đối ngoại
và hội nhập quốc tế về BHXH được đẩy mạnh.
2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu quan trọng nêu trên, việc tổ chức thực hiện chủ trương đổi mới, nâng cao hiệu quả chính sách BHXH cũng còn nhiều hạn
chế, yếu kém như:
Diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật cũng như quy mô tham gia BHXH
trên thực tế còn thấp, chưa hướng đến bao phủ toàn dân. Hệ thống BHXH về cơ bản
còn thiết kế đơn tầng, sự kết nối giữa chính sách BHXH với các chính sách xã
hội khác chưa đồng bộ, chặt chẽ. BHXH bắt buộc còn bỏ sót một số nhóm đối tượng
có nhu cầu và có khả năng tham gia. Trên thực tế, năm 2017 vẫn còn trên 70%
chưa tham gia. Mục tiêu đến năm 2020 có 50% lực lượng lao động tham gia BHXH
theo Nghị quyết số 15-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 Khóa XI và Nghị quyết số
21-NQ/TW của Bộ Chính trị không đạt được. Các nguyên tắc công bằng, đóng -
hưởng, chia sẻ và bảo đảm bền vững tài chính chưa được quán triệt đầy đủ, quỹ
hưu trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong dài hạn, chính sách BHTN nặng
về giải quyết hậu quả khi người lao động thất nghiệp mà chưa chú ý thỏa đáng đến
phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp.
Còn có sự không công bằng trong công thức
tính lương hưu giữa nam và nữ, giữa lao động khu vực Nhà nước và khu vực ngoài
Nhà nước, việc thể chế hóa nguyên tắc này còn chậm (Luật BHXH năm 2014 quy định người lao động
trong khu vực Nhà nước khi nghỉ hưu, tính bình quân toàn bộ quá trình đóng BHXH
như người lao động khu vực ngoài Nhà nước. Tuy nhiên, quy định này chỉ áp dụng
đối với những người bắt đầu tham gia BHXH từ năm 2025. Như vậy, người lao động
trong khu vực Nhà nước sớm nhất tính bình quân toàn bộ quá trình đóng BHXH là
người nghỉ hưu từ năm 2045), tổ chức thực hiện còn vướng mắc (Điều 60, khoản 2 Điều 56 và khoản 2 Điều 74
của Luật BHXH năm 2014).
Thiết kế CSBH hưu trí nhiều điểm chưa phù hợp:
(i)
Quy định thời gian tham gia BHXH để được hưởng lương hưu quá dài (20 năm) trong
khi điều kiện hưởng BHXH một lần khá dễ dàng (Theo quy định hiện hành, NLĐ sau một năm nghỉ việc, nếu có nhu cầu thì
được nhận BHXH một lần), mức hưởng BHXH một lần cao (Mức hưởng BHXH một lần ở Việt Nam tính trên cả phần đóng góp của người
lao động và người sử dụng lao động, trong khi kinh nghiệm của các nước khi cho
nhận BHXH một lần chỉ được nhận phân đóng góp của người lao động mà không được
nhận phần đóng góp của người sử dụng lao động);
(ii)
Công thức tính lương hưu thiết kế chưa hợp lý, nặng về nguyên tắc đóng hưởng,
chưa chú ý thỏa đáng nguyên tắc chia sẻ để thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa
những người hưởng lương hưu (Cách tính
lương hưu ở Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào tiền lương trong quá khứ của cá
nhân người lao động dẫn đến người đi làm có lương cao thì khi nghỉ hưu nhận
được lương hưu cao và ngược lại. Tính đến cuối năm 2017, người có lương hưu cao
nhất ờ nước ta là hơn 100 triệu đồng/tháng; người có lương hưu thấp nhất là 1,3
triệu đồng/tháng. Lương hưu tại một số nước, chẳng hạn như Hàn Quốc và Trung
Quốc được tính dựa trên hai yếu tố là lương của bản thân người lao động và
lương của những người cùng thế hệ. Điều này dẫn đến người có tiền lương khi đi
làm thấp, khi nghỉ hưu vẫn được chia sẻ để có một mức lương hưu khấm khá hơn);
(iii)
số người hưởng chế độ hưu trí, tử tuất tăng nhanh, số người mới tham gia tăng
chậm (Năm 1996, có 217 người đang đóng
BHXH thì chỉ có 1 người đang hưởng chế độ hưu trí; năm 2006 tỷ lệ này là 12,6/1
và năm 2016 là 8,5/1), số người hưởng BHXH một lần cao (Trong giai đoạn 2012 -2017, mỗi năm bình quân có 628 nghìn người hưởng
BHXH một lần dẫn đến số người tham gia BHXH tăng thêm chi là 594 nghìn người;
tức là cứ có 2 người mới tham gia vào BHXH thì có 1 người rời khỏi hệ thống);
mức hưởng lương hưu cao và thời gian hưởng quá dài trong mối tương quan với mức
đóng và thời gian đóng. Tuổi thọ bình quân tăng nhanh nhưng tuổi nghỉ hưu được
quy định từ năm 1960, đến nay đã gần 60 năm vẫn không thay đổi tạo áp lực cho
khả năng cân đối của Quỹ. BHTN chưa thực sự trở thành công cụ quản trị thị
trường lao động. Chính sách BHTN chú trọng các giải pháp giải quyết hậu quả
thông qua hỗ trợ người lao động nhận TCTN, đào tạo đáp ứng yêu cầu của công
việc mới, giới thiệu việc làm mà chưa chú ý thỏa đáng đến các giải pháp phòng
ngừa như hỗ trợ doanh nghiệp duy trì việc làm, tránh sa thải lao động, thu hút
lao động thất nghiệp dài hạn khó tìm việc làm... như thông lệ các nước (Chính sách BHTN của các nước đều thiết kế
các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp để duy trì việc làm, tránh sa thải lao động,
thu nhận lao động thất nghiệp dài ngày khó tìm việc làm, hỗ trợ doanh nghiệp
các dự án tuyển dụng lao động mới ở khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao... để giảm
thất nghiệp; chính sách hỗ trợ người lao động thất nghiệp nhận trợ cấp thất
nghiệp, học nghề, chuyển đổi việc làm. Kết hợp cả phòng ngừa, giảm thiểu và
giải quyết hậu quả thất nghiệp là mục tiêu chung trong chính sách BHTN theo
thông lệ của các nước. Thiếu sự tham gia của doanh nghiệp thì không thể giải
quyết bài toán thất nghiệp).
-
Chưa thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập với
tiền lương của người đang làm việc (theo Kết luận số 63-KL/TW ngày 27 tháng 5
năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI và Luật Bảo hiểm xã hội). Việc điều chỉnh tiền lương hưu thời gian qua thường được
tiến hành đồng thời với điều chỉnh tiền lương khu vực hành chính nhà nước, mức
tăng thường bằng mức tăng của tiền lương khu vực hành chính nhà nước, làm tăng
chi cả từ ngân sách nhà nước (Theo quy
định của Luật BHXH thì NSNN bảo đảm kinh phí chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH
đối với những người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH trước ngày 01 tháng 01 nãm
1995. Tổng kinh phí chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH từ ngân sách nhà nước năm
2017 là gần 45 nghìn tỷ đồng, trong đó chi cho điều chỉnh lương hưu, trợ cấp
BHXH hàng tháng khoảng 1,5 nghìn tỷ đồng) và Quỹ BHXH, tạo ra những bất hợp
lý mới như người có mức lương hưu cao được tăng quá nhiều, người có mức lương
hưu thấp được tăng quá ít dẫn đến gia tăng khoảng cách tuyệt đối về mức lương
hưu giữa những người đang hưởng càng lớn (Tính
đến cuối năm 2017, có khoảng 2,38 triệu người đang hưởng lương hưu, trong đó có
hơn 210 nghìn người (chiếm 9%) có lương hưu dưới 2,5 triệu đồng/tháng; có gần
350 nghìn người (chiếm 15%) có lương hưu trên 6 triệu đồng/tháng).
-
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước còn hạn
chế. Thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của
cấp ủy, chính quyền các cấp. Chưa thực hiện giao chỉ tiêu phát triển đối tượng
BHXH cho các địa phương; sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan Kế
hoạch - Đầu tư, Tài chính (Thuế), Lao động - Thương binh và Xã hội với cơ quan
BHXH còn chưa chặt chẽ.
Tình trạng vi phạm pháp luật, trốn đóng, nợ
đóng BHXH, nhất là khu vực doanh nghiệp vẫn còn khá phổ biến (Ước tính cả nước đến cuối năm 2017 đang có
hơn 600.000 doanh nghiệp hoạt động nhưng chỉ có 228.552 doanh nghiệp (chỉ bằng
38% số doanh nghiệp đang hoạt động) đóng BHXH), chậm được khắc phục.
Nợ đóng BHXH còn lớn (Tổng số nợ BHXH có tính lãi tính đến ngày 31 tháng 12 nãm 2017 là
5.973 tỷ đồng, trong đó, nợ BHXH bắt buộc là 5.737 tỷ đồng, nợ BHTN là 236 tỷ
đồng).
Xuất hiện tình trạng trục lợi từ Quỹ BHXH;
doanh nghiệp và người lao động thỏa thuận không đóng hoặc giảm mức đóng vào Quỹ
BHXH. Các chế tài xử lý vi phạm pháp luật BHXH còn chưa đủ mạnh và thực thi
chưa nghiêm. Việc giao công đoàn khởi kiện doanh nghiệp nợ BHXH hiệu quả không
cao và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế (Các
nước thường xử phạt nợ đóng, trốn đóng BHXH rất nặng; không giao Công đoàn khởi
kiện vì một số trường hợp người lao động chưa phải là đoàn viên công đoàn nên
không thể ủy quyền).
-
Tổ chức thực hiện
chính sách BHXH, BHTN còn nhiều hạn chế. Cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và
nhân sự của bộ máy thực hiện BHTN còn bất hợp lý, phụ thuộc vào ngân sách nhà
nước, chưa phù hợp với nguyên lý bảo hiểm và thông lệ quốc tế nhưng chậm được
sửa đổi, chưa phát huy được các chức năng tích cực của chính sách. BHTN chưa
thực sự hỗ trợ được người lao động và doanh nghiệp rút ngắn thời gian tìm việc,
thời gian tuyển người, chưa hỗ trợ được mục tiêu duy trì và mở rộng diện bao
phủ BHXH, chưa bảo vệ hiệu quả việc làm cho lao động trong nước.
Nhận thức của một bộ phận người lao động và
người sử dụng lao động về vai trò, tác dụng của BHXH chưa đầy đủ. Công tác
thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật chưa có những đổi mới
mạnh mẽ để mang lại hiệu quả tốt hơn về phát triển đối tượng, tạo niềm tin vững
chắc để thu hút người lao động tham gia hệ thống BHXH.
3. Nguyên nhân
Những hạn chế,
yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:(i)
Chính sách BHXH của nước ta mới đựợc hình thành và phát triển cùng với quá
trình chuyển đổi mô hình kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi tư duy, lý luận - nhận thức về
BHXH cần quá trình từng bước hoàn chỉnh; năng lực thiết kế hệ thống còn hạn
chế. Việc hình thành, hoàn thiện chính sách BHXH đòi hỏi thời gian dài trong
khi chúng ta mới thực hiện được hơn 20 năm. Vì vậy, việc xây dựng chính sách,
pháp luật, thiết kế bộ máy tổ chức thực hiện BHXH còn lúng túng, thiếu nhất
quán, chưa đồng bộ. (ii) Đặc trưng cơ cấu lao động ở nước ta là phần lớn làm
việc ở khu vực không có quan hệ lao động. Thu nhập của số đông người dân còn
thấp và không ổn định, áp lực chi tiêu trước mắt lớn. Mạng lưới an sinh xã hội
phi chính thức dựa trên mô hình gia đình truyền thống còn phổ biến. Do đó,
không ít người dân chưa quan tâm tham gia BHXH. (iii) Năng lực xây dựng và tổ
chức thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về BHXH nhiều mặt
còn hạn chế. Nhận thức còn chưa đầy đủ, sâu sắc, chưa coi công tác này là một
trụ cột trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Khả năng phân tích, dự báo
còn bất cập. Chưa làm tốt công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn và kiểm tra, giám
sát, xử lý vi phạm, (iv) Công tác thông tin, truyền thông chưa được chú trọng.
Nhận thức về BHXH trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
các chủ thể tham gia BHXH còn nhiều hạn chế, nhất là ý thức về quyền lợi, trách
nhiệm đóng góp BHXH của người sử dụng lao động và người lao động.
IV. QUAN ĐIỂM CHỈ
ĐẠO, MỤC TIÊU CỦA NGHỊ QUYẾT VÀ NỘI DUNG CẢI CÁCH CSBHXH
1. Quan điểm
(1)
BHXH là một trụ cột
chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tién bộ, công bằng xã hội, bảo đảm
ổn định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước.
-
Phát triển hệ thống CSBHXH linh hoạt, đa dạng,
đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế; huy động các nguồn lực xã hội theo truyền
thống tương thân tương ái của dân tộc; hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp hài hoà các nguyên tắc
đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững.
(2)
Cải cách CSBHXH vừa
mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài; kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn
định với đổi mới, phát triển và phải đặt trong mối tương quan với đổi mới, phát
triển các chính sách xã hội khác, nhất là chế độ tiền lương, thu nhập, trợ giúp
xã hội để mọi công dân đều được bảo đảm an sinh xã hội.
(3)
Phát triển hệ thống
tổ chức thực hiện CSBHXH bảo đảm tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại,
nâng cao tính hấp dẫn, củng cố niềm tin và sự hài lòng của người dân cũng như
các chủ thể tham gia bảo hiểm xã hội.
(4)
Thực hiện tốt
CSBHXH là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp uỷ
đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội,
doanh nghiệp và của mỗi người dân.
2. Mục tiêu
a) Mục tiêu
tổng quát:
Cải cách chính sách
bảo hiểm xã hội để bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an
sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng
tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh
hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng -
hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Nâng cao năng lực, hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển hệ thống thực hiện chính sách bảo hiểm
xã hội tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, tin cậy và minh bạch.
b) Mục tiêu cụ thể
-
Giai đoạn đến năm
2021, phấn đấu có khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH
(trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội
tự nguyện chiếm khoảng 1% lực lượng lao động trong độ tuổi); đến năm 2025 có
khoảng 45% (trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia
BHXHTN chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ tuổi) và đến 2030 có
khoảng 60% (trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia
BHXHTN khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi).
-
Giai đoạn đến năm
2021, phấn đấu có khoảng 45% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương
hưu, BHXH hàng tháng và trợ cấp xã hội (lương hưu xã hội); đến năm 2025 có
khoảng 55% và đến 2030 có khoảng 60%.
- Giai đoạn đến năm
2021, tỷ lệ giao dịch điện tử đạt 100%. Thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức
độ 4. Phấn đấu giảm số giờ giao dịch giữa cơ quan BHXH với doanh nghiệp bằng
mức ASEAN 4.
-
Giai đoạn đến năm
2021, phấn đấu chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia BHXH đạt mức
80%; đén năm2025 đạt mức 85% và đến 2030đạt mức 90%.
3. Nội dung cải
cách
Qua tổng kết lý luận và thực tiễn phát
triển bảo hiểm xã hội ở nước ta từ năm 1995 đến nay; kết quả nghiên cứu khảo
sát sâu rộng ở trong nước và ngoài nước với sự tham gia góp ý của nhiều cơ
quan, đơn vị, tổ chức, chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế đã làm rõ
những nội dung cơ bản về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội của nước ta trong
thời gian tới. Cụ thể là:
Thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để
mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn
dân; bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu
độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc,
thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ.
(1)
Xây
dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng
-
Trợ cấp hưu trí xã
hội: Ngân sách nhà nước cung cấp một khoản trợ cấp cho người cao tuổi không có
lương hưu, hoặc bảo hiểm xã hội hằng tháng. Có chính sách huy động các nguồn
lực xã hội đóng thêm để các đối tượng này có mức hưởng cao hơn; điều chỉnh giảm
dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội phù hợp với khả năng của ngân sách.
-
Bảo hiểm xã hội cơ
bản, bao gồm BHXH bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện: Bảo hiểm xã hội bắt
buộc (với các chế độ hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, ốm
đau, thai sản, thất nghiệp) dựa trên đóng góp của người lao động và người sử
dụng lao động. Bảo hiểm xã hội tự nguyện (với các chế độ hưu trí, tử tuât hiện
nay, từng bước mở rộng sang các chế độ khác) dựa trên đóng góp của người lao
động không có quan hệ lao động; có sự hỗ trợ phù hợp từ ngân sách nhà nước cho
nông dân, người nghèo, người có thu nhập thấp, lao động khu vực phi chính thức
để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội; nâng cao ý thức, trách nhiệm của người
lao động đối với việc tự bảo đảm an sinh cho bản thân. Mở rộng diện bao phủ bảo
hiểm xã hội theo lộ trình điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu phù hợp từng thời kỳ.
-
Bảo hiểm hưu trí bổ
sung là chế độ hưu trí tự nguyện theo nguyên tắc thị trường, tạo điều kiện cho
người sử dụng lao động và người lao động có thêm sự lựa chọn tham gia đóng góp
để được hưởng mức lương hưu cao hơn.
(2)
Sửa
đỗi quy định về điều kiện thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu để hưởng
chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt đồng thời với việc điều chỉnh cách tính
lương hưu theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình
đẳng, chia sẻ và bền vững. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
sang các nhóm đối tượng khác,
Sửa đổi điều kiện
hưởng ché độ hưu trí theo hướng giảm dần số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu
để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống 15 năm, hướng tới còn 10 năm với
mức hưởng được tính toán phù hợp nhằm tạo điều kiện cho người lao động cao
tuổi, có số năm tham gia bảo hiểm xã hội thấp được tiếp cận và thụ hưởng quyền
lợi bảo hiểm xã hội. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, hoàn thiện cách tính lương hưu,
bảo đảm công bằng giữa nam và nữ, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà
nước, kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa người có mức
lương cao với người có mức lương thấp để thu hẹp khoảng cách về thu nhập trong
các đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Rà soát, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm
xã hội bắt buộc đổi với các nhóm chủ hộ kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp,
người quản lý, điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao động làm
việc theo chế độ linh hoạt.
(3)
Tăng
cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội cũng như tính linh
hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ
Nghiên cứu sửa đổi,
hoàn thiện CSBH thất nghiệp, chú trọng không chỉ các giải pháp xử lý hậu quả
thông qua việc chi trả trợ cấp thất nghiệp, đào tạo đáp ứng yêu cầu của công
việc mới, giới thiệu việc làm mà cần chú ý thoả đáng đến các giải pháp phòng
ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp thông qua việc hỗ trợ doanh nghiệp duy
trì sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm cho người lao động. Nghiên cứu thiết
kế các gói bảo hiểm xã hội tự nguyện ngắn hạn linh hoạt để người lao động có
nhiều sự lựa chọn tham gia và thụ hưởng. Mở rộng các chế độ bảo hiểm xã hội tự
nguyện, tạo điều kiện chuyển đổi thuận lợi giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và
BHXH bắt buộc, hướng tới chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với toàn bộ
người lao động có việc làm, có thu nhập và tiền lương khi có đủ điều kiện cần
thiết.
(4)
Cải
cách trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách nhằm củng cố niềm tin, tăng
mức độ hài lòng của người tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội
Xây dựng CSBHXH bảo
đảm sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa các nhóm đối tượng tham gia; tăng
cường sự chia sẻ giữa các nhóm đối tượng thụ hưởng nhằm khắc phục bất hợp lý,
chênh lệch quá lớn về mức hưởng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công
nghệ thông tin, đơn giản hoá các quy trình, thủ tục đăng ký, đóng, hưởng bảo
hiểm xã hội, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ bảo hiểm xã hội theo hướng
thân thiện, công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
(5)
Đẩy
nhanh quá trình gia tăng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội trong khu vực phi
chính thức
Đẩy mạnh phát triển
doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số 10- NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban
Chấp hành Trung ương khoá XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động
lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên
cứu thiết kế các gói bảo hiểm xã hội ngắn hạn với mức đóng, mức hưởng, phương
thức giao dịch phù hợp với người lao động trong khu vực phi chính thức.
(6)
Sửa
đổi, khắc phục các bất hợp lý về chế độ bảo hiểm hưu trí hiện nay theo hướng
linh hoạt hơn về điều kiện hưởng chế độ hưu trí, chặt chẽ hơn trong quy định hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một
lần, tăng tuổi nghỉ hưu bình quân thực tế của người lao động
Có quy định phù hợp
để giảm tình trạng hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo hướng tăng quyền lợi nếu
bảo lưu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ hưu trí, giảm quyền
lợi nếu hưởng bảo hiểm xã hội một lần. Sửa đổi các quy định để khuyến khích
người lao động tham gia bảo hiểm xã hội thời gian dài hơn, từng bước tăng tuổi
nghỉ hưu bình quân, tăng tỉ lệ giảm trừ tiền lương hưu đối với người lao động
muốn nhận chế độ hưu trí sớm.
(7)
Thực
hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình
Điều chỉnh tuổi
nghỉ hưu cần có tầm nhìn dài hạn và có lộ trình phù hợp với tăng trưởng kinh
tế, giải quyết việc làm, thất nghiệp; không gây tác động tiêu cực đến thị
trường lao động; bảo đảm số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số; bình đẳng giới;
cân đối Quỹ BHXH trong dài hạn; xu hướng già hoá dân số; tính chất, loại hình
lao động và giữa các ngành nghề, lĩnh vực.
Từ năm 2021, thực
hiện điều chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu tăng tuổi nghỉ hưu chung, thu hẹp
dần khoảng cách về giới trong quy định tuổi nghỉ hưu; đối với những ngành nghề
đặc biệt, người lao động được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với
tuổi nghỉ hưu chung.
(8)
Sửa
đỗi các quy định về mức đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để đạt mục
tiêu mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội
Sửa đổi quy định về
căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của khu vực doanh nghiệp ít nhất bằng khoảng 70%
tổng tiền lương và các khoản thu nhập khác có tính chất lương của người lao
động để khắc phục tình trạng trốn đóng, đóng không đủ bảo hiểm xã hội, ảnh
hưởng đến khả năng cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội và quyền lợi của người lao động.
Nghiên cứu điều
chỉnh tỉ lệ đóng vào Quỹ bảo hiểm xã hội theo hướng hài hoà quyền lợi giữa
người sử dụng lao động và người lao động.
(9)
Điều
chỉnh tỉ lệ tích lũy để đạt tỉ lệ hưởng lương hưu tối đa phù hợp với thông lệ
quốc tế
Sửa đổi cách tính
lương hưu theo hướng giảm tỉ lệ tích luỹ, bảo đảm khả năng cân đối quỹ hưu trí
trong dài hạn, phù hợp với thông lệ quốc tế. Có lộ trình điều chỉnh kéo dài
thời gian tham gia bảo hiểm xã hội thực tế, bảo vệ quyền lợi của người hưởng chế
độ hưu trí theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng và chia sẻ phù hợp.
(10) Đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội
theo nguyên tắc an toàn, bền vững, hiệu quả
Tăng cường công tác
đánh giá, dự báo tài chính, hiệu quả đầu tư các quỹ bảo hiểm xã hội; đa dạng
hoá danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền
vững và hiệu quả; ưu tiên đầu tư vào trái phiếu chính phủ, nhất là trái phiếu
chính phủ dài hạn; nghiên cứu từng bước mở rộng sang các lĩnh vực có khả năng
sinh lời cao, từng bước và có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của Quỹ
thông qua uỷ thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế bảo đảm an toàn,
bền vững.
(11)
Thực
hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương
của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hưởng
chia sẻ
Thực hiện điều
chỉnh trợ cấp hưu trí xã hội theo khả năng cân đối của ngân sách nhà nước;
lương hưu cơ bản được điều chỉnh chủ yếu dựa trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá
tiêu dùng, khả năng của Quỹ bảo hiểm xã hội và ngân sách nhà nước; quan tâm
điều chỉnh thoả đáng đối với nhóm đối tượng có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu
trước năm 1995 nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch lương hưu giữa người nghỉ
hưu ở các thời kỳ.
Trải qua các giai đoạn phát triển, chính
sách BHXH đã đạt được những kết quả tích cực, đồng thời cũng đặt ra những vấn
đề lớn cần phải cải cách, điều chỉnh nhiều nội dung để khắc phục những hạn chế,
yếu kém, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với xu hướng phát triển và bối cảnh
mới. Căn cứ vào vào các nội dung cơ bản về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội
của nước ta và để đạt được các mục tiêu nêu trên, trong những năm tới cần thực
thiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
(1)
Tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, nâng
cao nhận thức về chính sách bảo hiểm xã hội
Cấp uỷ đảng, chính
quyền các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền; đổi
mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo
hiểm xã hội để cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ sự cần thiết, lợi ích, vai
trò, ý nghĩa và những nội dung cơ bản của cải cách chính sách bảo hiểm xã hội
đối với bảo đảm an sinh xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo
sự đồng thuận, thống nhất trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.
(2)
Hoàn
thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm, BHXH
Thể chế hoá các chủ
trương và hoàn thiện pháp luật, chính sách về bảo hiểm xã hội phải kết hợp với
hoàn thiện pháp luật, chính sách về chế độ tiền lương, việc làm, chính sách
người có công với cách mạng và các chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực có
liên quan khác.
Sửa đổi, bổ sung
pháp luật về bảo hiểm xã hội theo hướng tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội toàn
dân; thiết kế hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng; hoàn thiện các quy định về đóng
- hưởng bảo hiểm xã hội, bảo đảm các nguyên tắc công bằng, bình đẳng, chia sẻ
và bền vững. Rà soát, sửa đổi các quy định về người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài, người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam tham gia bảo hiểm
xã hội bắt buộc, gắn với việc đẩy mạnh đàm phán, ký kết hiệp định song phương
về bảo hiểm xã hội.
Sửa đổi, bổ sung
chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách việc làm theo hướng hỗ trợ doanh
nghiệp và người lao động duy trì việc làm, bảo đảm quyên lợi chính đáng của
doanh nghiệp và người lao động, khăc phục tình trạng gian lận, trục lợi bảo
hiêm thât nghiệp. Có quy định cụ thê và cơ chê quản lý chặt chẽ việc đầu tư Quỹ
bảo hiểm xã hội, bảo đảm việc đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội an toàn, bền vững,
hiệu quả.
Hoàn thiện các chế
tài xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, nhất là đối với các hành vi
trốn đóng, nợ đóng, trục lợi bảo hiểm xã hội theo hướng cơ quan quản lý nhà
nước về bảo hiểm xã hội và cơ quan quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội có thẩm quyền xử
phạt các doanh nghiệp trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi bảo hiểm xã hội;
đồng thời, các doanh nghiệp và người lao động có quyền khiếu nại, hoặc khởi
kiện cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội nếu phát
hiện có sai phạm trong thực hiện chính sách BHXH.
(3)
Nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH
Nâng cao năng lực,
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội, nhất là trong việc
hoạch định chiến lược phát triển, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo
hiểm xã hội. Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và địa phương trong
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, kịp thời xử lý
những khó khăn, vướng mắc phát sinh.
Nâng cao tính tuân
thủ pháp luật về bảo hiểm xã hội thông qua thực hiện đồng bộ các biện pháp hành
chính, kinh tế, tư pháp để tăng số người tham gia bảo hiểm xã hội, đi đôi với
chú trọng tăng số người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội, đặc biệt là chế độ
hưu trí. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp
luật về bảo hiểm xã hội, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, nhất
là các hành vi trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi tiền bảo hiểm xã hội.
Sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để đẩy mạnh việc phân cấp cho các cơ
quan BHXH; thực hiện giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH cho các
địa phương; phân định rõ quản lý nhà nước với quản trị bộ máy tổ chức thực hiện
chính sách BHXH.
Tăng cường công tác
phối hợp, chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu giữa cơ quan quản lý nhà nước vê
đâu tư, tài chính, thuê, lao động đê nâng cao hiệu quả quản lý đối tượng tham
gia BHXH và thực thi chính sách BHXH. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về BHXH. Xây dựng cơ sở dữ liệu về
BHXH, bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng cung ứng
dịch vụ của cơ quan BHXH.
(4)
Nâng
cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chỉnh sách bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm thất nghiệp
Hoàn thiện bộ máy
tổ chức thực hiện chính sách BHXH, bảo hiểm thất nghiệp theo đúng tinh thần của
Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu BCHTW khoá XII Một
số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt
động của Hội đông quản lý BHXH. Thực hiện chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán
và thông tin báo cáo về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
Đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên tất cả các
lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; hoàn thiện, đẩy mạnh kết nối cơ
sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm với các hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan
nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện chính sách và công tác nghiên cứu, hoạch
định chính sách. Tiếp tục hiện đại hoá quản lý bảo hiểm xã hội, đầu tư phát
triển công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Kịp thời ngăn chặn tình trạng gian lận, trục lợi
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
Triển khai có hiệu
quả các chính sách bảo hiểm thất nghiệp, phát huy đầy đủ các chức năng của bảo
hiểm thất nghiệp, bảo đảm bảo hiểm thất nghiệp thực sự là công cụ quản trị thị
trường lao động. Chi phí tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp lấy
từ nguồn Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, không lấy từ ngân sách nhà nước. Có cơ chế
tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, nhất
là trong bối cảnh thị trường lao động biến động nhanh chóng và cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ 4 đã và đang làm biến đổi cấu trúc của thị trường lao động.
(5)
Tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng trong hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách bảo
hiểm xã hội theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong phát triển
đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và tuân thủ các quy định của pháp luật về
bảo hiểm xã hội.
Phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong
giám sát, phản biện xã hội, tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện
tốt chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội.
VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN (không giới thiệu, nghiên cứu trong tài
liệu)./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét