ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU
NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 7
KHÓA XII
Nghị quyết số 27-NQ/TW về “cải cách chính
sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp”
Đại
tá Phạm Hồng Chương
UVTVĐU, Chủ Nhiệm chính trị Cục Hậu cần
Hội nghị lần thứ 7, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về “cải cách chính sách tiền lương đối với
cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh
nghiệp”. Đây là
Nghị quyết chuyên đề của Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, nhằm cụ
thể hóa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra.
Hai là, bối cảnh cải cách chính sách
tiền lương.
Ba là, tình hình và nguyên nhân.
Bốn là, quan điểm, mục tiêu của Nghị
quyết và nội dung cải cách CSTL.
Năm là, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu.
CSTL là một bộ phận đặc biệt quan trọng,
quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác trong hệ thống chính sách kinh tế - xã
hội, liên quan trực tiếp đến các cân đối kinh tế vĩ mô, thị trường lao động và
đời sống người hưởng lương, góp phần xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn,
trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phòng, chống tham nhũng.
CSTL ở nước ta đã trải qua 4 lần cải cách
(năm 1960, năm 1985, năm 1993 và năm 2003), trong đó cải cách chính sách tiền
lương năm 1993 đã thực hiện đường lối đổi mới theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và được tiếp tục điều chỉnh, cải cách từ năm 2003 (Theo Đề án
cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công
giaỉ đoạn 2003 - 2007 đã được Hội nghị Trung ương 8 khóa IX thông qua tại Kết
luận số 21-KL/TW ngày 07/8/2003).
Cụ thể là:
-
1960:
Nghị định số 25/CP quy định chế độ lương thuộc khu vực hành chính, sự nghiệp
theo các nguyên tắc: Mức lương của cán bộ lãnh đạo cao hơn của cán bộ, nhân
viên bị lãnh đạo; chức vụ có yêu cầu cao về kỹ thuật, nghiệp vụ cao hơn chức vụ
mà kỹ thuật, nghiệp vụ đơn giản hơn; lao động trong điều kiện khó khăn, hại sức
khỏe cao hơn mức lương của lao động trong điều kiện bình thường; làm chức vụ gì
thì xếp lương theo chức
vụ ấy, khi chức vụ thay đổi thì bậc lương cũng thay đổi theo.
-
1985:
Nghị định số 235/HĐBT với cuộc cải cách lớn về giá - lương - tiền với nội
dung chủ yếu là tính đủ chi phí hợp lý vào sản xuất; thực hiện cơ chế một giá;
đảm bảo tiền lương thực tế cho người làm công ăn lương; xác lập quyền tự chủ về
tài chính của các cơ sở kinh tế. Nguyên tắc hưởng lương: Làm công việc gì, chức vụ gì thì hưởng lương theo công việc
ấy, chức vụ ấy; khi thay đổi công việc, thay đổi chức vụ thì hưởng lương theo
công việc mới, chức vụ mới, không bảo lưu mức lương cũ. Chỉ trừ trường hợp cán
bộ cấp trên được cử về tăng cường cho cấp dưới thì mới giữ nguyên lương. Có 10 khoản phụ cấp, gồm: Phụ cấp
khu vực, phụ cấp chênh lệch giá sinh hoạt theo vùng, phụ cấp thâm niên đặc biệt,
phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp ưu đãi, phụ cấp chiến đấu, phụ cấp độc
hại, khó khăn, nguy hiểm, phụ cấp lưu động, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thu
hút về cơ sở sản xuất. Tiền thưởng từ quỹ lương bằng 5% quỹ lương cấp bậc hoặc
chức vụ.
-
1993:
Hình thành tiền lương trên cơ sở có quan hệ thuê mướn lao động, tách chế độ
tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức với tiền lương của người lao động
trong doanh nghiệp. Mức lương tối thiểu năm 1993 là 120.000 đồng/tháng làm
căn cứ để
tính các mức lương khác của hệ thống bảng lương, mức phụ cấp lương và trả
công đối với người làm công việc đơn giản nhất trong điều kiện lao động bình
thường. Hệ thống bảng lương (lương chức vụ đối với cán bộ bầu cử và lương
chuyên môn cộng phụ cấp chức vụ đối với cán bộ do bổ nhiệm) được ban hành quy
định bằng hệ số nhân với mức lương tối thiểu được thiết kế theo quan hệ tiền
lương 1 -1,78 - 8,5. Có 8 chế độ phụ cấp lương và bổ sung thêm nhiều loại phụ
cấp ngành, nghề.
-
Chế
độ tiền lương hiện hành (từ năm 2003) trên cơ sở kế thừa chế độ tiền lương năm
1993, hệ thống bảng lương ban hành từ tháng 10/2004 tiếp tục được quy định bằng
hệ số nhân với mức lương tối thiểu được thiết kế theo quan hệ tiền lương 1 -
2,34 - 10 theo hướng thu gọn một bước hệ thống thang, bảng, ngạch, bậc lương,
mở rộng khoảng cách chênh lệch giữa các bậc lương, giảm dần phức tạp, bảo đảm tương quan giữa các đối
tượng, các ngành và các lĩnh vực; quy định thống nhất các chức danh lãnh đạo
(không phân biệt bầu cử hay bổ nhiệm) từ Thứ trưởng và tương đương trở xuống
xếp lương theo ngạch, bậc công chức, viên chức và hưởng phụ cấp chức vụ lãnh
đạo để thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính
trị. Cơ chế quản lý tiền lương đã tách bạch giữa khu vực hành chính với khu vực
sự nghiệp và khu vực sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình thực hiện, Đảng và Nhà nước
đã chỉ đạo ban hành nhiều văn bản điều chỉnh, bổ sung CSTL. Đến nay, thực hiện Kết luận số 23-KL/TW ngày 29/5/2012 của HNTW
5 và Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của HNTW 7 khóa XI, đã từng
bước hoàn thiện cơ chế
quy định mức lương tối thiểu vùng và chế độ tiền lương của khu vực
doanh nghiệp theo yêu cầu phát triển KTTT có sự quản lý của Nhà nước; đã
thực hiện nguyên tắc chỉ điều chỉnh mức lương cơ sở và ban hành chính sách, chế độ mới đối với khu vực công khi đã bố trí
đủ nguồn lực, không ban hành mới các chế độ phụ cấp theo nghề (Từ năm 2013 đến nay, Chính
phủ thực hiện nghiêm túc việc xây dựng dự toán NSNN hằng năm và giai đoạn
2016-2020, trong đó có nội đung dự toán NSNN cho việc điều chỉnh mức lương cơ
sở, lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công báo cáo Quốc hội xem xét, quyết
định. Trên cơ sở đó, Chính phủ thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở, lương hưu
và trợ cấp ưu đãi người cỏ công theo đúng Nghị quyết của Quốc hội),
triển khai xây dựng danh mục vị trí việc làm để làm cơ sở cho việc trả lương...
Tuy
nhiên,
CSTL vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, đời sống
của đa số người hưởng lương còn khó khăn; tiền lương trong khu vực doanh nghiệp
vẫn chưa theo kịp sự phát triển của thị trường lao động; tiền lương trong khu
vực công vẫn còn thấp so với khu vực doanh nghiệp và yêu cầu
phát triển
của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; việc điều
chỉnh tiền lương của người đang làm việc vẫn chưa
độc lập với việc điều chỉnh lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công; việc thể
hóa chủ trương của Đảng về tiền tệ hóa các chế độ ngoài lương (xe ô tô, nhà ở,
khám chữa bệnh, ...)
còn chậm.
II. BỐI CẢNH CẢI CÁCH CSTL
Việc cải cách CSTL thời gian tới có những cơ hội, thuận
lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Chúng ta được kế thừa thành tựu của hơn 30
năm đổi mới, phát triển và hội nhập; nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN ngày
càng đầy đủ, hoàn thiện. Nhiều quyết sách quan trọng của Đảng và Nhà nước tạo nền tảng cho cải cách chính sách tiền lương đã được ban hành, nhất là về hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, về đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống tổ chức
và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp-công
lập. Thế và lực của nền kinh tế đã lớn mạnh hơn; thị trường lao động ngày càng
phát triển; năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh ngày
càng tăng, tạo nền tảng và điều kiện thuận lợi cho cải cách chính sách tiền
lương.
Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn rất lớn; tiềm lực
NSNN còn hạn hẹp trong khi nhu cầu chi rất lớn cho đầu tư phát triển, cải cách
chính sách tiền lương, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với
biến đổi khí hậu và quốc phòng an ninh. Việc cải cách CSTL liên quan đến nhiều
cơ chế, chính sách, ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp nhân dân, các đối tượng trong
xã hội nên đòi hỏi phải có sự đồng thuận, quyết tâm chính trị cao và cần có
thời gian phát huy hiệu quả. Trong khi đó, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
khoa học công nghệ biến đổi rất nhanh và Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi phải
tiếp tục đổi mới, cải cách toàn diện, tổng thể chính sách tiền lương để không
là trở ngại mà trở thành một công cụ quan trọng khuyến khích và thu hút các
nguồn lực lao động, thúc đẩy tăng năng suất lao động phục vụ mục tiêu phát
triển nhanh và bền vững.
III. TÌNH
HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
- Tiền lương trong khu vực công đã từng bước được cải thiện,
góp phần nâng
cao đời sống của người hưởng lương; từ năm 2003 đến
nay đã 11 lần điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung
(từ ngày 01/7/2013 thay bằng mức lương cơ sở) từ 210.000 đồng/tháng lên
1.300.000 đồng/tháng (tăng thêm 519%, cao hơn mức tăng chỉ số giá tiêu dùng
cùng kỳ là 208,58%); đồng thời thu gọn hệ thống bảng lương, rút bớt số bậc
trong ngạch và mở rộng khoảng cách giữa các bậc lương so với
năm 1993.
(Năm 1993 có
25 bảng lương, đến năm 2004 thu gọn còn 11 bảng lương, gồm:
+ 02 Bảng
lương tại Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH11: (1) Bảng lương chức vụ đối với
cán bộ lãnh đạo của Nhà nước; và (2) Bảng lương chuyên ngành Tòa án, Kiểm sát.
+ 07 bảng lương tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP: (1) Bảng lương chuyên
gia cao cấp; (2) Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với công chức; (3) Bảng
lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với viên chức; (4) Bảng lương nhân viên thừa
hành, phục vụ; (5) Bảng lương cán bộ cấp xã; (6) Bảng lương cấp bậc quân hàm sĩ
quan quân đội; sĩ quan, hạ sĩ quan công an; và (7) Bảng lương quân nhân chuyên
nghiệp và chuyên môn kỹ thuật công an. Trong đó đã rút bớt 4 bậc trong các
ngạch nhân viên và cán sự; rút bớt 1 bậc trong các ngạch chuyên viên, chuyên
viên chính, chuyên viên cao cấp và tương đương. Đồng thời mở rộng khoảng cách
giữa các bậc lương, cụ thể là: Hệ số lương bậc 1 của nhân viên từ 1,46 lên
1,86, tăng thêm 27,4%. Hệ số lưong bậc 1 của chuyên viên từ 1,78 lên 2,34, tăng
thêm 31,5%. Hệ số lương tối đa (chuyên gia cao cấp, tương đương Bộ trưởng) từ
8,5 lên 10, tăng thêm 17,6%.
+ 02 bảng lương tại Quyết định số 128-QĐ/TW: (1) Bảng lương chức vụ
lãnh đạo Đảng, Mặt trận và các đoàn thể; và (2) Bảng mức lương chuẩn đối với
các chức danh lãnh đạo Hội Cựu chiến binh Việt Nam.)
- Quy định bảng lương chuyên môn theo ngạch, bậc đối với công chức,
viên chức;
quy định các chức danh lãnh đạo từ Thứ trưởng và tương đương trở xuống
thực hiện xếp lương ngạch, bậc và hưởng phụ cấp chức vụ
lãnh đạo, tạo thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển cán bộ trong hệ thống
chính trị. Bảng lương của lực lượng vũ trang được quy định riêng thể hiện rõ sự
ưu đãi của Nhà nước. Thực hiện nâng bậc lương đối với cán bộ, công chức, viên
chức; xét thăng quân hàm đối với sĩ quan; nâng ngạch công chức theo nguyên tắc
cạnh tranh.
- Quy định phụ cấp theo các nhóm:
(1) Phụ cấp chức vụ lãnh đạo (theo phân loại chức vụ và phân loại tổ chức); (2)
Nhóm phụ cấp theo vùng (phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực, phụ cấp đặc biệt ở
biên giới, hải đảo); (3) Nhóm phụ cấp theo điều
kiện lao động và ưu đãi theo nghề, công việc
(phụ cấp độc hại, nguy hiểm;
phụ cấp lưu động, phụ cấp thâm niên nghề và các phụ cấp đối với nghề y, nhà
giáo, văn nghệ sĩ, tòa án, kiểm sát, hải quan, thanh tra,...);
(4) Nhóm phụ cấp theo thời gian công tác (phụ cấp công tác lâu năm, phụ cấp
thâm niên vượt khung); (5) Nhóm phụ cấp theo cơ quan (phụ cấp công vụ; phụ cấp
công tác đảng, đoàn thể), góp phần ổn
định lực lượng lao động, thể hiện sự ưu đãi của
Nhà nước đối với điều kiện lao động đặc thù của từng
vùng, từng nghề hoặc công việc.
(So sánh tiền
lương của người tốt nghiệp đại học hết tập sự (có mức lương cơ bản là
2,34x1.300.000 đồng/tháng = 3.042.000 đồng/tháng) thì tiền lương/tháng (gồm
lương cơ bản cộng phụ cấp) ở địa bàn xã Ka Lãng, huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu
(xã đặc biệt khó khăn được áp dụng phụ cấp đặc biệt 100%, phụ câp thu hút 70%
và phụ cấp khu vực 0,7) như sau:
Chuyên viên
bậc 1 (tốt nghiệp đại học hết tập sự) được hưởng 9.883.900 đồng/tháng (đuợc
hưởng 25% phụ cấp công vụ); chuyên viên bậc 9 được hưởng 20.008.300 đồng/tháng;
Bác sĩ bậc 1
(tốt nghiệp đại học hết tập sự) được hưởng 11.252.800 đồng/tháng (được hưởng
phụ cấp ưu đãi theo nghề 70%); Bác sĩ bậc 9 được hưởng 22.921.600 đồng/tháng;
Giáo viên
Trung học phổ thông bậc 1 (tốt nghiệp đại học hết tập sự) được hưởng 11.252.800
đông/tháng (được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề 70%); Giáo viên Trung học phổ
thông bậc 9 được hưởng 24.475.360 đồng/tháng;
Thiếu úy (tốt
nghiệp đại học), được hưởng 17.017.000 đồng/tháng; Trung tá được hưởng
27.937.000 đồng/tháng (được hưởng phụ cấp thâm niên nghề 20%).
Như vậy, tiền
lương của nhà giáo (gồm lương cơ bản cộng phụ cấp) là cao nhất trong khu vực
hành chính, sự nghiệp (chỉ thấp hơn lực lượng vũ trang công tác trên cùng địa
bàn)).
- Tùng bước đổi mới và tách riêng cơ chế quản lý tiền
lương và thu nhập của cơ quan nhà
nước với đơn vị sự nghiệp công lập đê tăng thêm thu nhập cho cán bộ, công chức
(từ kinh phí tiết kiệm chi hành chính) và viên chức (từ chế độ tự chủ tài
chính); góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước và
chất lượng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công.
- Đổi mới giải pháp tạo nguồn cải cách tiền lương,
gồm 4 nguồn: tiết kiệm 10% chi thường xuyên; sử dụng
một phần nguồn thu của các cơ quan hành chính và một phần nguồn thu sự nghiệp;
sử dụng 50% số tăng thu ngân sách địa phương; phần kinh phí còn thiếu do NSTW
bảo đảm, thay cho việc bảo đảm toàn bộ từ NSTW như trước năm 2003.
- Chính sách tiền lương trong khu vực doanh nghiệp đã
từng bước thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Mức lương trả cho
người lao động dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng
lao động trong hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể.
Nhà nước đã giảm dần sự can thiệp hành chính, quản lý
tiền lương thông qua quy định mức lương tối thiểu vùng là mức sàn thấp nhất để bảo vệ người lao động
yếu thế, đồng thời là một trong những căn cứ để thỏa thuận tiền lương và điều
tiết thị trường lao động. Thay đổi cơ chế xác lập mức lương tối thiểu vùng, từ
ấn định của Nhà nước sang dựa trên két quả thương lượng của 3 bên (đại diện
người lao động, đại diện người sử dụng lao động và Nhà nước) thông qua Hội đồng
Tiền lương Quốc gia. Mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh tương đối phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng chi trả của doanh nghiệp, tùng bước
cải thiện đời sống của người lao động.
Doanh
nghiệp được quyền quyết định chính sách tiền lương (thang lương, bảng lương và
trả lương theo năng suất lao động, kết quả công việc) theo nguyên tắc chung do
Chính phủ quy định, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người lao động và người sử
dụng lao động trong điều kiện thị trường lao động chưa phát triển, năng lực thương
lượng tiền lương của người lao động và tổ chức đại diện người lao động tại cơ
sở (công đoàn) còn hạn chế.
Vai
trò của tổ chức công đoàn trong việc tham gia quyết định chính sách tiền lương
của doanh nghiệp (xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế
trả lương và thưởng...) từng bước được tăng cường, bảo đảm công khai, minh bạch
trong quá trình ban hành chính sách và trả lương cho người lao động.
Nhà
nước hướng dẫn, hỗ trợ nâng cao năng lực thương lượng, kết nối cung - cầu lao
động, cung cấp thông tin thị trường lao động (nhu cầu tuyển dụng, mức lương
trên thị trường...) để người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận công
việc, tiền lương.
Chính
sách tiền lương đối với khu vực DNNN được đổi mới phù hợp với chủ trương của
Đảng về sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN thông qua quy
định các tiêu chí, điều kiện và giao cho doanh nghiệp quyết
định tiên lương trả cho người lao động gắn với năng suất
lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh; tách tiền lương của người quản lý với
người lao động, gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đối
với khu vực công:
Chính
sách tiền lương trong khu vực công còn phức tạp, thiết kế hệ thống bảng lương
chưa phù hợp với vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo, còn mang tính
bình quân, cào bằng, chưa thực sự tạo được động lực để nâng cao hiệu quả làm
việc của người lao động.
Quy
định mức lương bằng hệ số nhân với mức lương tối thiểu đã không thể hiện
rõ giá trị thực của tiền lương; việc quy định mức lương cơ sở từ tháng 7 năm
2013 đến nay thay cho mức lương tối thiểu chung theo Kết
luận số 63- KL/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa
XI để phù hơp với khả năng ngân sách nhà nước
nhưng thấp hơn nhiều
so với mức lương tối thiểu
vùng, dẫn đến tiền lương của
khu vực công cách biệt và thấp hơn khu vực doanh nghiệp.
(Mức lương cơ sở 1.300.000 đồng/tháng từ ngày
01/7/2017 chỉ bằng 38,9% mức lương tối thiểu vùng bình quân của khu vực doanh
nghiệp; bằng 35,7% nhu cầu tối thiểu. Mức lương chuyên viên bậc 1 (đại học hết
tập sự) tính cả 25% phụ cấp công vụ là 3.802.500 đồng/tháng, bằng 95,5% mức
lương tối thiểu vùng I và bằng 49% mức lương bình quân của người lao động có
cùng trình độ trong khu vực doanh nghiệp)
Quy định xếp lương đối với các chức danh lãnh đạo (bầu cử,
bổ nhiệm) theo ngạch, bậc và hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo tuy có thuận lợi
cho việc điều động, luân chuyển cán bộ, nhưng chưa thể hiện được rõ việc trả lương theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh
đạo; đồng
thời do phụ cấp
chức vụ lãnh đạo chiếm tỷ trọng nhỏ dẫn đến nhiều trường hợp tiền lương của lãnh đạo
cấp trên (kể cả người chỉ huy trong lực lượng vũ trang) thấp hơn tiền lương của
lãnh đạo cấp dưới, không thể hiện rõ thứ bậc hành chính trong hoạt động công
vụ.
((1) Tiền lương của một Vụ trưởng cao hơn một Phó
trưởng ban Đảng ở Trung ương:
Ông A, Phó trưởng ban đảng ở Trung ương có hệ số lương
6,56 bậc 2 ngạch chuyên viên cao cấp, hưởng phụ cấp chức vụ 1,30 và phụ cấp
công vụ 25% (không hưởng phụ cấp công tác đảng 30%) có tổng tiền lương tháng là
12.772.500 đồng.
Ông B, Vụ trưởng có cùng hệ số lương 6,56 bậc 2 ngạch
chuyên viên cao cấp và hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo 1,0, phụ cấp công vụ 25%
và phụ cấp công tác đảng 30% có tổng tiền lương tháng là 15.233.400 đồng.
(2) Tiền lương của Phó Tổng tham mưu trưởng cao hơn
Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân VN:
Tổng tham mưu trưởng giữ quân hàm Trung tướng có hệ số
lương 9,20, phụ cấp chức vụ lãnh đạo 1,40, phụ cấp thâm niên nghề 40% và phụ
cấp công vụ 25% có tổng tiền lương tháng là 22.009.000 đồng/tháng.
Phó Tồng tham mưu trưởng giữ quân
hàm Thượng tướng có hệ số lương 9,80, phụ cấp chức vụ lãnh đạo hệ sô 1,25, phụ
cấp thâm niên nghề 40% và phụ cấp công vụ 25% có tổng tiền lương tháng là
23.052,250 đồng/tháng)
Có
quá nhiều loại phụ cấp, đặc biệt là phụ cấp theo
nghề và hệ số tiền lương tăng thêm đối với một số
cơ quan, đơn vị thực hiện cơ chế tài chính đặc thù
do nhiều cơ quan quyết định đã phát sinh nhiều bất hợp
lý. Tổng quỹ phụ cấp năm 2017 chiếm khoảng 40% tổng quỹ tiền lương, cao hơn
thông lệ quốc tế là khoảng 30%.
Tiền
lương tính theo chế độ thấp nhưng nhiều trường
hợp có các khoản thu nhập ngoài lương như tiền bồi dưỡng họp, tiền bồi dưỡng
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án, đề
tài,... chiếm tỷ lệ lớn trong tổng
thu nhập của cán bộ, công chức, làm mất vai trò đòn bẩy
của tiền lương.
Chưa
có giải pháp gắn cải cách tiền lương với việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản
biên chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việc đổi mới
tổ chức và quản lý, cơ chế tài chính đối với khu vực SNCL chưa đáp ứng yêu cầu.
Nguồn
kinh phí thực hiện cải cách tiền lương đối với
khu vực công cơ bản vẫn do ngân sách nhà nước (NSNN) bảo đảm (khoảng 98% giai
đoạn 2011 - 2016) và chủ yếu từ ngân sách
trung ương (khoảng 68%). Việc thực hiện xã hội hóa và điều
chỉnh giá, phí dịch vụ công theo cơ chế thị trường trong
nhiều lĩnh vực còn chậm. Nhiều địa phương còn dư nguồn cải cách tiền lương
nhưng không được chi lương cao hơn.
Chưa
có cơ chế tiền thưởng gắn với kết quả thực hiện
nhiệm vụ để khuyến khích CB, CC, VC làm việc hiệu quả.
Theo kinh nghiệm quốc tế (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,...) đều có chế độ
tiền thưởng đối với khu vực công.
Công
tác thông tin, báo cáo, thống kê về tiền lương chưa được
thực hiện đầy đủ, thường xuyên, nhất là đơn vị sự nghiệp công lập; chưa có cơ
sở dữ liệu Quốc gia về
đối
tượng và tiền lương trong khu vực công để
phục vụ công tác phân tích, đánh giá, hoạch định chính sách tiền lương quốc
gia.
- Đối với khu vực doanh nghiệp;
Quy
định về tiền lương tối thiểu trong Bộ luật Lao động và các văn bản pháp luật
chưa cụ thể, tiêu chí xác định còn nhấn mạnh vào nhu cầu sống tối thiểu của
người lao động; chưa quy định mức lương tối thiểu theo giờ nên độ bao phủ còn
hẹp, chức năng bảo vệ người lao động yếu thế
còn hạn chế; vai trò của Hội đồng Tiền lương Quốc gia còn hạn chế.
Việc Nhà nước quy định một số nguyên tắc về xây dựng thang, bảng lương (như khoảng cách giữa các bậc lương
ít nhất 5%, mức lương đối với
công việc qua đào tạo phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu...) tuy đã góp phần bảo vệ
quyền lợi của người lao động, hạn chế tranh chấp lao động nhưng còn chưa hợp
lý, ảnh hưởng đến quyền tự chủ tiền lương của doanh nghiệp.
Chưa
thực sự phát huy được vai trò, tác dụng của cơ chế thương lượng, định đoạt tiền
lương giữa người sử dụng lao động và người lao động trong quan hệ lao động. Vi
phạm quy định pháp luật về tiền lương còn nhiều; công tác hướng dẫn, tuyên
truyền, kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm của cơ quan quản lý nhà
nước còn hạn chế.
Cơ chế quản lý tiền lương đối với DNNN còn nhiều bất cập. Tiền
lương của người lao động chưa thực sự gắn với năng suất lao động và hiệu quả
kinh doanh; chưa tách bạch giữa tiền lương của HĐQT, Hội đồng thành viên với
Ban giám đốc. Phân phối tiền lương trong các loại hình DNNN chưa phản ánh đúng quan hệ phân phối trong KTTT;
chưa bảo đảm công khai, minh bạch.
Những
hạn chế, bất cập của chính sách tiền lương nêu trên có nguyên nhân khách quan
từ nội lực của nền kinh tế còn yếu, đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập
quốc tế từ nước nghèo trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung
bình thấp; chất lượng tăng trưởng, NSLĐ, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp;
tích lũy còn ít, nguồn lực còn hạn chế, nợ công đã ở sát giới hạn cho phép,
không còn nhiều dư địa chính sách, trong khi phải ưu tiên bố
trí ngân sách cho đầu tư phát triển,
bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an
ninh,...; những nguyên nhân chủ quan là chủ yếu,
cụ thể như sau:
-
Tiền lương là vấn
đề phức tạp, ảnh hưởng lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội, việc hoạch định,
điều chỉnh chính sách rất khó và dễ phát sinh những bất hợp lý; việc thể chế
hóa các chủ trương của Đảng về chính sách tiền lương còn chậm do tư duy đổi mới
chưa theo kịp sự phát triển của KTTT định hướng XHCN, còn tư tưởng bình quân,
cào bằng; chưa có nghiên cứu toàn diện về chính sách tiền lương trong nền KTTT
định hướng XHCN.
-
Tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động chưa cao, số lượng đơn vị hành chính và
đơn vị SNCL tăng nhanh những năm vừa qua, làm cho đối
tượng hưởng lương, phụ cấp từ NSNN quá lớn
và ngày càng tăng, nhất là biên chế viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công
lập và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở
thôn và tổ dân phố (tổng số lên đến 4,14 triệu người, chưa kể Quân đội, Công an
và đối
tượng hưởng trợ cấp); dẫn đến tổng quỹ lương và phụ cấp
từ NSNN ngày càng lớn (bình quân khoảng 20% tổng chi NSNN) (Tính trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2017 thì: Mức lương tối thiểu
chung (mức lương cơ sở) điều chỉnh bằng 1,78 lần, nhưng tổng quỹ lương và trợ
cấp chi từ ngân sách tăng bằng 2,185 lần (do đối tượng tăng và bổ sung phụ cấp
công vụ, phụ cấp thâm niên nhà giáo, phụ cấp vùng đặc biệt khó khăn).
-
Số lượng cán bộ, công chức, viên chức từ Trung ương
đến cấp xã tính đên ngày 31/12/2016 là 3.103.795 người (chiếm 3,35% dân số),
nếu tính thêm người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố
là 4.142.375 người (chiếm 4,47% dân số) và nếu tính cả các đối tượng hưởng trợ
cấp hàng tháng từ NSNN (chưa kể Quân đội, Công an và người hưởng bảo trợ xã
hội) là 7.073.034 người là mức cao trên thê giới, chiếm 7,63% dân số (Số liệu
đối tượng, quỹ lương và trợ cấp từ NSNN).).
-
Việc xác định vị
trí việc làm còn chậm, chưa thực sự làm cơ sở để xác định biên chế và trả
lương.
-
Nguồn kinh phí được
giao tự chủ trong tổng chi NSNN cấp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa hợp lý,
dẫn đến việc sử dụng các khoản chi hoạt động hành chính để bổ sung
thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức khá lớn và trở
thành phổ biến.
-
Chưa phân biệt rõ
chính sách tiền lương với chính sách bảo hiểm xã hội và chính sách ưu đãi người
có công; trong quá trình thực hiện vẫn gắn việc điều chỉnh tiền lương với điều
chỉnh lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công, dẫn đến thay đổi lộ trình của
từng chính sách.
-
Chưa
phân định rõ mối quan hệ giữa QLNN và quản trị doanh nghiệp, giữa đại diện chủ
sở hữu với ban điều hành doanh nghiệp trong quản lý, giám sát tiền
lương tại doanh nghiệp. Công tác thanh tra, kiểm
tra, giám sát, hệ thống thông tin thị trường lao động, tiền lương, năng lực
thương lượng về tiền lương của người lao động trong ký kết hợp đồng lao động và
việc phát huy vai trò của tổ chức công đoàn còn nhiều hạn chế,...
-
Công
tác hướng dẫn, tuyên truyền về chính sách tiền lương chưa tốt, dẫn đến việc xây
dựng và thực hiện một số chính sách còn chưa tạo được đồng thuận cao, nhất là
về việc đổi mới tổ chức, quản lý và cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập gắn với chính sách hỗ trợ phù hợp cho các đối
tượng chính sách và người nghèo trong thực hiện lộ trình tính đúng, tính đủ phí
(giá) dịch vụ để tạo thêm nguồn lực cho cải cách tiền lương.
IV. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, MỤC TIÊU CỦA NGHỊ QUYẾT VÀ NỘI
DUNG CẢI CÁCH CSTL
1. Quan điểm
(1)
Chính sách tiền
lương là một chính sách đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế -
xã hội. Tiền lương phải thực sự là nguồn thu nhập chính bảo đảm
đời sống người lao động và gia đình người hưởng
lương; trả lương đúng là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, tạo động lực
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, góp phần
quan trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị -
xã hội; thúc đẩy, nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững.
(2)
Cải
cách chính sách tiền lương phải bảo đảm tính tổng thể, hệ thống, đồng bộ, kế
thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục có hiệu quả những hạn chế, bất cập
của chính sách tiền lương hiện hành; tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao
động và quy luật khách quan của kinh tế thị trường,
lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng lương; đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế; có lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội và nguồn lực của đất nước.
(3)
Trong khu
vực công, Nhà nước trả lương cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ
trang theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo, phù hợp với nguồn
lực của Nhà nước và nguồn thu sự nghiệp dịch vụ công, bảo đảm
tương quan hợp lý với tiền lương trên thị trường lao động; thực hiện chế độ đãi
ngộ, khen thưởng xứng đáng theo năng suất lao động,
tạo động lực nâng cao chất lượng, hiệu quả
công việc, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, góp phần
làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị.
(4)
Trong khu vực doanh
nghiệp, tiền lương là giá cả sức lao động, hình thành trên cơ sở thoả thuận
giữa người lao động và người sử dụng lao động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước. Nhà nước quy định tiền lương tối thiểu là mức sàn thấp nhất để
bảo vệ người lao động yếu thế, đồng thời là một
trong những căn cứ để thoả thuận tiền lương và điều tiết
thị trường lao động. Phân phối tiền lương dựa trên kết quả lao động và hiệu quả
sản xuất kinh doanh, bảo đảm mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ
trong doanh nghiệp.
(5)
Cải cách CSTL là
yêu cầu khách quan, là nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao
trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN; thúc đẩy cải cách hành chính; đổi mới, sắp xếp
tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả,
tinh giản biên chế; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động của các đơn vị SNCL.
2. Mục tiêu
a) Mục tiêu tổng quát:
Xây dựng hệ thống chính sách tiền lương
quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất
nước, đáp ứng yêu cầu phát triển
của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến
bộ; tạo động lực giải phóng sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất
lượng nguồn nhân lực; góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm
đời sống của người hưởng lương và gia đình người hưởng
lương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
b) Mục
tiêu cụ thể
* Đối
với khu vực công
(1) Từ năm 2018 đến năm 2020: Tiếp tục điều
chỉnh tăng mức lương cơ sở theo Nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm không thấp hơn
chỉ số giá tiêu dùng và phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế; không bổ sung
các loại phụ cấp mới theo nghề.
Hoàn
thành việc xây dựng và ban hành chế độ tiền lương mới theo nội dung cải cách
chính sách tiền lương, gắn với lộ trình cải cách hành chính, tinh giản biên chế;
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; đổi mới đơn vị sự
nghiệp công lập theo Nghị quyết của Trung ương.
(2)
Từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030:
Từ năm 2021, áp dụng chế độ tiền lương mới thống nhất đối với cán bộ, công chức,
viên chức, lực lượng vũ trang trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Năm
2021, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng mức lương thấp
nhất bình quân các vùng của khu vực doanh nghiệp. Định kỳ thực hiện nâng mức
tiền lương phù hợp với chỉ số giá tiêu dùng, mức tăng trưởng kinh tế và khả
năng của ngân sách nhà nước.
Đến
năm 2025, tiền lương thấp nhất của cán bộ,
công chức, viên chức cao hơn mức lương thấp nhất bình quân các vùng của khu vực
DN. Đến
năm 2030, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng hoặc cao
hơn mức lương thấp nhất của vùng cao nhất của khu vực doanh nghiệp.
* Đối
với khu vực doanh nghiệp
Thực hiện điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu vùng phù
hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội, khả năng chi trả của doanh nghiệp để đến năm 2020 mức lương tối thiểu bảo đảm mức sống tối thiểu của người
lao động và gia đình họ. Thực hiện thí điểm quản lý lao động, tiền lương đối
với doanh nghiệp nhà nước theo các nội dung của Đề án cải cách chính sách tiền lương được phê duyệt.
Từ
năm 2021, Nhà nước định kỳ điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng trên cơ sở
khuyến nghị của Hội đồng Tiền lương quốc gia. Các doanh nghiệp được thực hiện
chính sách tiền lương trên cơ sở thương lượng, thoả thuận giữa người sử dụng
lao động với người lao động và đại diện tập thể người
lao động; Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của
doanh nghiệp.
Thực
hiện quản lý lao động, tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước theo phương thức
khoán chi phí tiền lương gắn với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
đến năm 2025 và tiến tới giao khoán nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vào năm 2030.
3. Nội
dung cải cách CSTL
(1). Đối
với cán
bộ, công chức, viên chức và lực lượng vã trang (khu vực công)
a)
Thiết kế cơ cấu tiền lương mới gồm:
Lương cơ bản (chiếm khoảng 70% tổng quỹ lương) và các khoản phụ cấp (chiếm
khoảng 30% tổng quỹ lương). Bổ sung tiền thưởng (quỹ tiền thưởng bằng khoảng
10% tổng quỹ tiền lương của năm, không bao gồm phụ cấp).
b)
Xây dựng,
ban hành hệ thống bảng lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay
thế hệ thống bảng lương hiện hành; chuyển xếp lương cũ sang lương mới, bảo đảm
không thấp hơn tiên lương hiện hưởng, gồm:
“ Xây dựng 1 bảng lương chức vụ áp dụng đối
với cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo (bầu cử và bổ nhiệm)
trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp xã theo nguyên tắc: (1) Mức
lương chức vụ phải thể hiện thứ bậc trong hệ thống chính trị; giữ chức vụ lãnh
đạo nào thì hưởng lương theo chức vụ đó, nếu một người giữ nhiều chức vụ thì
hưởng một mức lương chức vụ cao nhất; giữ chức vụ lãnh đạo tương đương nhau thì
hưởng mức lương chức vụ như nhau; mức lương chức vụ của người lãnh đạo cấp
trên phải cao hơn mức lương chức vụ của người
lãnh đạo cấp dưới; (2) Quy định một mức lương chức vụ cho mỗi loại chức vụ
tương đương; không phân loại bộ, ngành, ban, uỷ ban và tương đương ở Trung ương
khi xây dựng bảng lương chức vụ ở Trung ương; không phân biệt mức lương chức vụ
khác nhau đối với cùng chức danh lãnh đạo theo phân loại đơn vị hành chính ở
địa phương mà thực hiện bằng chế độ phụ cấp. Việc phân loại chức vụ lãnh đạo
tương đương trong hệ thống chính trị để thiết kế bảng lương chức vụ do Bộ Chính
trị quyết định sau khi đã báo cáo Ban Chấp hành Trung ương.
-
Xây dựng 1 bảng
lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp viên
chức áp dụng chung đối với công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo; mỗi
ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức
có nhiều bậc lương theo nguyên tắc: Cùng mức độ phức tạp công việc thì mức
lương như nhau; điều kiện lao động cao hơn bình thường và ưu đãi nghề thì thực
hiện bằng chế độ phụ cấp theo nghề; sắp xếp lại nhóm
ngạch và số bậc trong các ngạch công chức, chức danh nghề
nghiệp viên chức, khuyến khích công chức, viên chức nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ. Việc bổ nhiệm vào ngạch công chức hoặc chức danh nghề nghiệp
viên chức phải gắn với vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, chức danh
nghề nghiệp viên chức do cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý
công chức, viên chức thực hiện.
-
Xây dựng 3 bảng
lương đối với lực lượng vũ trang, gồm: 1 bảng
lương sĩ quan quân đội, sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ công an (theo chức vụ,
chức danh và cấp bậc quân hàm hoặc cấp hàm); 1 bảng lương quân nhân chuyên
nghiệp, chuyên môn kỹ thuật công an và 1 bảng lương công nhân quốc phòng, công
nhân công an (trong đó giữ tương quan tiền lương của lực lượng vũ trang so với
công chức hành chính như hiện nay).
c) Xác
định các yếu tố cụ thể để thiết kế bảng lương mới
-
Bãi bỏ mức lương cơ
sở và hệ số lương hiện nay, xây dựng mức lương cơ bản bằng số tiền cụ thể trong
bảng lương mới.
-
Thực hiện thống
nhất chế độ hợp đồng lao động theo quy định của Bộ luật Lao động (hoặc hợp đồng
cung cấp dịch vụ) đối với những người làm công việc thừa hành, phục vụ (yêu cầu
trình độ đào tạo dưới trung cấp), không áp dụng bảng lương công chức, viên chức
đối với các đối tượng này.
-
Xác định mức tiền
lương thấp nhất của công chức, viên chức trong khu vực công là mức tiền
lương của người làm công việc yêu cầu trình độ đào tạo trung cấp (bậc 1) không
thấp hơn mức tiền lương thấp nhất của lao động qua đào tạo trong khu vực doanh
nghiệp.
(Mức lương tối thiểu vùng từ ngày
01/01/2018: Vùng I là 3.980.000 đồng/tháng; vùng II là 3.530.000 đồng/tháng;
vùng III là 3.090.000 đồng/tháng và vùng IV là
2.760.000 đồng/tháng, tính bình quân 4 vùng là 3.340.000 đồng/tháng.
Dự kiến tăng 5%/năm thì mức lương thấp nhất của người có trình độ đào tạo (cao
hơn 7% so với mức lương tối thiểu vùng) năm 2020 như
sau: Vùng I là 4.930.000 đồng/tháng; vùng II là
4.390.000 đồng/tháng; vùng III là 3.830.000 đồng/tháng; vùng IV là 3.420.000
đồng/tháng, bình quân 4 vùng là 4.140.000 đồng/tháng.)
-
Mở
rộng quan hệ tiền lương làm căn cứ để xác định mức tiền lương cụ thể trong hệ
thống bảng lương, từng bước tiệm cận với quan hệ tiền lương của khu vực doanh
nghiệp phù hợp với nguồn lực của Nhà nước.
- Hoàn thiện chế độ nâng bậc lương thường
xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức và
lực lượng vũ trang phù hợp với quy định của bảng lương mới.
d) Sắp
xếp lại các chế độ phụ cấp hiện hành, bảo đàm tổng quỹ phụ cấp chiếm tối đa 30%
tổng quỹ lương
-
Tiếp
tục áp dụng phụ cấp kiêm nhiệm; phụ cấp thâm niên vượt khung; phụ cấp khu vực;
phụ cấp trách nhiệm công việc; phụ cấp lưu động; phụ cấp phục vụ an ninh, quốc
phòng và phụ cấp đặc thù đối với lực lượng vũ trang (quân đội, công an, cơ
yếu).
-
Gộp phụ cấp ưu đãi
theo nghề, phụ cấp trách nhiệm theo nghề và phụ cấp độc hại, nguy hiểm (gọi
chung là phụ cấp theo nghề) áp dụng đối với công chức, viên chức của những
nghề, công việc có yếu tố điều kiện lao động cao hơn bình thường và có chính
sách ưu đãi phù hợp của Nhà nước (giáo dục và đào tạo, y tế, toà án, kiểm sát,
thi hành án dân sự, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, hải quan, kiểm lâm, quản lý
thị trường,...). Gộp phụ cấp đặc biệt, phụ cấp thu hút và trợ cấp công tác lâu
năm ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thành phụ cấp công
tác ở vùng đặc biệt khó khăn.
-
Bãi bỏ phụ cấp thâm
niên nghề (trừ quân đội, công an, cơ yếu để bảo đảm tương quan tiền lương với
cán bộ, công chức); phụ cấp chức vụ lãnh đạo (do các chức danh lãnh đạo trong
hệ thống chính trị thực hiện xếp lương chức vụ); phụ cấp công tác đảng, đoàn
thể chính trị - xã hội; phụ cấp công vụ (do đã đưa vào trong mức lương cơ bản);
phụ cấp độc hại, nguy hiểm (do đã đưa điều kiện lao động có yếu tố độc hại,
nguy hiểm vào phụ cấp theo nghề).
-
Quy định mới chế
độ phụ cấp theo phân loại đơn vị hành chính đối với cấp xã, cấp huyện và cấp
tỉnh.
-
Thực hiện nhất quán
khoán quỹ phụ cấp hằng tháng đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã, ở thôn và tổ dân phố trên tỉ lệ chi thường xuyên của Ủy
ban nhân dân cấp xã; đồng thời, quy định số lượng tối đa những người hoạt động
không chuyên trách theo từng loại hình cấp
xã,
thôn, tổ dân phố. Trên cơ sở đó, Uỷ ban nhân dân cấp xã trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp quy định cụ thể chức danh được hưởng phụ cấp theo hướng một chức danh
có thể đảm nhiệm nhiều cồng việc nhưng phải bảo đảm chất lượng, hiệu quả công
việc được giao.
đ)
Về cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập
-
Người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị được sử dụng quỹ tiền lương và kinh phí chi thường xuyên
được giao hằng năm để thuê chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt
thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị và
quyết định mức chi trả thu nhập tương xứng với nhiệm vụ được giao.
-
Người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị xây dựng quy chế để thưởng định kỳ cho
các đối tượng thuộc quyền quản lý, gắn với kết quả đánh giá, xếp loại mức độ
hoàn thành công việc của từng người.
-
Mở rộng áp dụng cơ
chế thí điểm đối với một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tự cân đối
ngân sách và bảo đảm đủ nguồn thực hiện cải cách tiền lương, các chính sách an
sinh xã hội được chi thu nhập bình quân tăng thêm không quá 0,8 lần quỹ lương
cơ bản của cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý.
-
Đơn vị sự nghiệp
công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, hoặc tự bảo đảm chi thường
xuyên và các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước được thực hiện cơ
chế tự chủ tiền lương theo kết quả hoạt động như doanh nghiệp.
-
Đơn vị sự nghiệp
công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên và đơn vị sự nghiệp công lập do
ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên thì áp dụng chế độ tiền
lương như công chức. Tiền lương thực trả gắn với vị trí
việc làm, chức danh nghề nghiệp viên chức do người đứng đầu đơn vị sự nghiệp
công lập quyết định trên cơ sở nguồn thu (từ ngân sách nhà nước cấp và từ nguồn
thu của đơn vị), năng suất lao động, chất lượng công việc và hiệu quả công tác
theo quy chế trả lương của đơn vị, không thấp hơn chế độ tiền lương do Nhà nước
quy định.
(2).
Đối với người lao động trong doanh nghiệp
a) Về mức lương tối thiểu vùng
-
Tiếp tục hoàn thiện
chính sách về tiền lương tối thỉểu vùng theo tháng; bổ sung quy định mức lương
tối thiểu vùng theo giờ nhằm nâng cao độ bao phủ của tiền lương tối thiểu và
đáp ứng tính linh hoạt của thị trường lao động.
-
Điều chỉnh mức
lương tối thiểu vùng bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình
người hưởng lương, đặt trong mối quan hệ với các yếu tố của thị trường lao động
và phát triển kinh tế - xã hội (cung - cầu lao động, tốc độ tăng trưởng kinh
tế, chỉ số giá tiêu dùng, năng suất lao động, việc làm, thất nghiệp, khả năng
chi ừả của doanh nghiệp...).
-
Kiện toàn chức năng,
nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng Tiền lương quốc gia; bổ sung các chuyên
gia độc lập tham gia Hội đồng.
b) Về cơ chế quản lỷ tiền lương và thu nhập
-
Các doanh nghiệp
(kể cả doanh nghiệp 100% vốn nhà nước) được tự quyết định chính sách tiền lương
(trong đó có thang, bảng lương, định mức lao động) và trả lương không thấp hơn
mức lương tối thiểu do Nhà nước công bố và trên cơ sở thoả ước lao động tập thê
phù hợp với tô chức sản xuât, tổ chức lao động, khả năng của doanh nghiệp và
công khai tại nơi làm việc.
-
Nhà nước công bố
mức lương tối thiểu vùng theo tháng và theo giờ, tiền lương bình quân trên thị
trường đối với các ngành nghề và hỗ frợ cung cấp thông tin thị trường lao động,
không can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
và người lao động thương lượng, thoả thuận tiền lương, ký hợp đồng lao động và
trả lương gắn vớỉ năng suất và kết quả lao động. Doanh nghiệp và tổ chức đại
diện người lao động thương lượng, thoả thuận về tiền lương, tiền thưởng, các
chế độ khuyến khích khác trong thoả ước lao động tập thể hoặc trong quy chế của
doanh nghiệp. Tăng cường vai trò, năng lực của tổ chức công đoàn và công tác
thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước.
c) Đối
với doanh nghiệp nhà nước
-
Nhà nước quy định
nguyên tắc chung để xác định tiền lương và tiền thưởng đối với doanh nghiệp nhà
nước gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, hướng đến bảo đảm
mặt bằng tiền lương trên thị trường. Thực hiện giao khoán chi phí tiền lương,
bao gồm cả tiền thưởng trong quỹ lương gắn với nhiệm vụ,
điều kiện sản xuất kinh doanh, ngành nghề, tính chất hoạt động của doanh
nghiệp; từng bước tiến tới thực hiện giao khoán, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
gắn với kết quả, hiệu quả quản lý và sử dụng vốn nhà nước của doanh nghiệp.
-
Phân
định rõ tiền lương của người đại diện vốn nhà nước với tiền lương của ban điều
hành; thực hiện nguyên tắc ai thuê, bổ nhiệm thì người đó đánh giá và trả
lương. Nhà nước quy định mức lương cơ bản, tiền lương tăng thêm và tiền thưởng theo năm gắn với quy mô,
mức độ phức tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn nhà
nước đối với người đại diện vốn nhà nước. Mức lương cơ bản được điều chỉnh phù
hợp theo mức lương của thị trường trong nước và khu vực. Từng bước tiến tới
thuê hội đồng thành viên độc lập và trả lương cho hội đồng thành viên, kiểm
soát viên từ lợi nhuận sau thuế. Tổng giám đốc và các thành viên ban điều hành
làm việc theo chế độ hợp đồng lao động và hưởng lương trong quỹ lương chung của
doanh nghiệp, trong đó có khống chế mức lương tối đa theo kết quả sản xuất kinh
doanh và mức tiền lương bình quân chung của người lao động. Thực hiện công khai
tiền lương, thu nhập hằng năm của ngườỉ đại diện vốn nhà nước và tổng giám đốc doanh nghiệp nhà nước.
-
Đối với doanh
nghiệp làm nhiệm vụ bình ổn thị trường theo nhiệm vụ được Nhà nước giao thì
tính toán, xác định để loại trừ những chi phí bảo đảm thực hiện nhiệm vụ bình
ổn thị trường, làm cơ sở xác định tiền lương, tiền thưởng của người lao động và
người quản lý doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp dịch vụ công ích, Nhà nước
tính đúng, tính đủ chi phí tiền lương phù hợp vớỉ mặt bằng thị trường vào chi
phí, đơn giá sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước thực hiện chính sách điều
tiết thu nhập bảo đảm hài hoà lợi ích giữa doanh nghiệp, người quản lý, người
lao động và Nhà nước.
(1)
Đẩy mạnh công tác
thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về quan điểm, mục tiêu, ý nghĩa,
yêu cầu, nội dung của cải cách CSTL đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực
lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp. Nâng cao nhận thức,
đổi mới tư duy, phương pháp, cách làm, tạo sự đông thuận cao ở các câp, các
ngành, các cơ quan, tô chức, đơn vị, doanh nghiệp, người hưởng lương và toàn xã
hội trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước vê CSL
-
Trên cơ sở tổng kết
việc thực hiện pháp luật cán bộ, công chức, viên chức; chọn lọc tiếp thu kinh
nghiệm tốt của quốc tế, rà soát bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về
vị trí việc làm và các tiêu chí đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên
chức gắn với từng vị trí việc làm trong khu vực công để làm căn cứ tuyển dụng,
sử dụng, đánh giá và trả lương đối với cán bộ, công chức, viên chức.
-
Các cơ quan, tổ
chức, đơn vị trong hệ thống chính trị trực tiếp xây dựng và hoàn thiện danh mục
vị trí việc làm, bản mô tả công việc, xác định cơ cấu công chức, viên chức, cấp
bậc hàm sĩ quan; xác định khung năng lực theo từng vị trí việc làm và tinh giản
biên chế theo các nghị quyết của Đảng và quy định của Nhà nước đã được ban
hành. Trên cơ sở đó, thực hiện sắp xếp lại tổ chức
bộ máy, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang
để thực hiện trả lương theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo.
(3) Xây dựng và ban hành chế độ tiền lương mới
-
Thực hiện nguyên
tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý chính sách tiền
lương của toàn hệ thông chính trị. Bộ Chính trị quyết
định chủ trương, nguyên tắc và giao BCSĐ Chính phủ
chỉ đạo Chính phủ cụ thể hoá việc thống nhất quản lý, ban hành hoặc trình cấp
có thẩm quyền, uỷ quyền cho cơ quan chức năng ban hành văn bản chế độ tiền
lương của cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang từ Trung ương đến
cấp xã.
-
Sau khi báo cáo Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị quyết định việc phân loại
chức vụ tương đương trong hệ thống chính trị làm căn
cứ xây dựng bảng lương mới.
-
Các cơ quan chức
năng của Đảng và Nhà nước xây dựng văn bản quy định chế độ tiền lương mới
báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định trước khi ban hành, để từ năm 2021
thực hiện chuyển xếp lương cũ sang lương mới theo nguyên tắc bảo đảm không thấp
hơn tiền lương hiện hưởng.
(4) Quyết liệt thực hiện các giải pháp tài chính, ngân sách,
coi đây là nhỉệm vụ đột phá để tạo nguồn lực cho cải cách CSTL
-
Thực hiện quyết
liệt và có hiệu quả các nghị quyết của Trung ương về cơ cấu lại nền kinh tế gắn
với đổi mới mô hình tăng trưởng; về hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN; về
phát triển kinh tế tư nhân; về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước; Nghị quyết của Bộ Chính trị
về cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công nhằm phát triển nguồn thu bền
vững, tăng cường vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương.
-
Triển
khai các nhiệm vụ cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước theo hướng bảo đảm tổng
nguồn thu và cơ cấu thu bền vững. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách
thu theo hướng mở rộng cơ sở thuế, bao quát nguồn thu mới. Tăng cường quản lý
thu, tạo chuyển biến căn bản trong việc chống thất thu, xử lý và ngăn chặn các
hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất kinh doanh hàng giả, chuyển
giá, trốn thuế. Thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí trong sử dụng
ngân sách nhà nước và đầu tư xây dựng cơ bản. Quyết
liệt thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh
tế.
-
Hằng năm, dành
khoảng 50% tăng thu dự toán và 70% tăng thu thực hiện của ngân sách địa phương,
khoảng 40% tăng thu ngân sách Trung ương cho cải cách chính sách tiền lương.
-
Tăng cường quản lý,
nâng cao hiệu quả chi NSNN; tiếp tục thực hiện tiết kiệm 10% dự toán chi thường
xuyên tăng thêm hằng năm cho đến khi thực hiện khoán quỹ tiền lương trên cơ sở
biên chế được cấp có thẩm quyền giao.
-
Nguồn thực hiện cải
cách chính sách tiền lương còn dư sau khi bảo đảm điều chỉnh mức lương cơ sở
hằng năm và bảo đảm các chính sách an sinh xã hội do Trung ương ban hành (đối
với ngân sách địa phương), các dự án đầu tư theo quy định (đối với các địa
phương có tỉ lệ điều tiết) theo nghị quyết của Quốc hội phải tiếp tục sử dụng
để thực hiện cải cách chính sách tiền lương sau năm 2020, không sử dụng vào mục
đích khác khi không được cấp có thẩm quyền cho phép.
-
Bãi bỏ các khoản
chi ngoài lương của cán bộ, công chức, viên chức có nguồn gốc
từ ngân sách nhà nước như: Tiền bồi
dưỡng họp; tiền bồi dưỡng xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật, đề án; hội thảo... Thực hiện khoán quỹ lương gắn
với mục tiêu tinh giản biên chế cho các cơ quan, đơn vị. Mở rộng cơ chế khoán
kinh phí gắn với
kết quả thực hiện nhiệm vụ. Không gắn mức lương của cán
bộ, công chức, viên chức với việc xây dựng, sửa đổi,
bổ
sung các văn bản quy định chính sách, chế độ không có
tính chất lương. Nghiên cứu quy định khoán các chế độ ngoài lương (xe ô tô,
điện thoại...). Chỉ ban hành các chính sách, chế
độ mới khi đã bố trí, cân đối được nguồn lực thực hiện.
-
Đẩy nhanh tiến độ
chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự nghiệp công, từng bước tính
đúng, tính đủ các chi phí đối với các loại dịch vụ cơ bản, thiết yếu, đồng thời
gắn với chính sách hỗ trợ phù hợp cho người nghèo,
đối tượng chính sách. Đối với giá dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân
sách nhà nước, giao quyền tự chủ cho các đơn vị cung ứng dịch vụ tự quyết định
theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích luỹ.
Đơn vị sự nghiệp công lập đã tự chủ tài
chính phải tự bảo đảm nguồn để thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Đối
với đơn vị sự nghiệp công lập bảo đảm một phần chi thường xuyên, tiếp tục sử
dụng tối thiểu 40% số thu được để lại theo chế độ (riêng ngành Y tế sử dụng tối
thiểu 35% sau khi trừ các chi phí đã kết cấu vào giá dịch
vụ), tiết kiệm 10% chi thường xuyên nguồn ngân sách tăng thêm hằng năm và sắp
xếp từ nguồn dự toán ngân sách nhà nước được giao đê bảo đảm nguôn thực hiện
cải cách chính sách tiên lương.
Đơn vị sự nghiệp công lập không có nguồn
thu do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên, thực hiện tiết kiệm
10% chi thường xuyên nguồn ngân sách tăng thêm hằng năm và sắp xếp từ nguồn dự
toán ngân sách nhà nước được giao để thực hiện cải cách chính sách tiền lương.
(5) Triển khai thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết Trung ương
6 khoá XII và các đề án đổi mới, cải cách trong các ngành, lĩnh vực có liên
quan là công việc rất quan trọng để cải cách CSTL một cách đồng bộ
Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới, tinh
giản, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị, các đơn vị sự nghiệp công lập. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu các cơ
quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị và người đứng đầu các đơn vị sự
nghiệp công lập với việc thể chế hoá và thực hiện các Nghị quyết Trung ương 6
khoá XII, đặc biệt là việc sắp xếp tinh
gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế người hưởng
lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước, cơ cấu
lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, tạo nguồn bền vững cho cải cách chính
sách tiền lương.
(6) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
-
Sửa đổi, hoàn thiện
pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức, lao động, doanh nghiệp, bảo hiểm xã
hội và pháp luật có liên quan đến chính sách tiền lương trong khu vực công và
khu vực doanh nghiệp; đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ cho các cơ quan, tổ
chức, đơn vị trong việc tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, bổ nhiệm, kỷ luật, trả
lương và quản lý đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong
doanh nghiệp để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của cơ quan, tổ
chức, đơn vị, doanh nghiệp. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đối tượng và
tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm liên thông, tích hợp với
các cơ sở dữ liệu quốc gia khác có liên quan.
-
Hoàn thiện cơ chế
thoả thuận về tiền lương trong doanh nghiệp thông qua việc thiết lập cơ chế đối
thoại, thương lượng và thoả thuận giữa các chủ thể trong quan hệ lao động theo
hướng công khai, minh bạch, dân chủ, bảo đảm hài hoà lợi ích của người lao động
và người sử dụng lao động, tạo sự đồng thuận cao. Phát triển tổ chức và nâng
cao chất lượng hoạt động của tổ chức công đoàn cơ sở, quản lý tốt việc thành
lập và hoạt động của tổ chức đại diện người lao động. Cơ quan thống kê của Nhà nước
công bố mức sống tối thiểu hằng năm để làm căn cứ xác định mức lương tối thiểu
và khuyến nghị các định hướng CSTL; tăng cường điều tra, công bố định kỳ thông
tin, số liệu về tiền lương và thu nhập
của cả khu vực công và khu vực thị trường. Nâng cao năng lực, hiệu quả công tác
nghiên cứu cơ bản và thiết kế chính sách về lao động và tiền lương.
-
Làm tốt công tác
phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành với cơ quan quản lý nhà
nước về đầu tư, tài chính các
cấp
trong quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN, tránh chồng chéo, lãng phí. Quy
định rõ quyền hạn gắn với trách nhiệm người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương,
cơ quan, tổ chức, đơn vị. Tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình của các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị
- xã hội.
-
Đẩy mạnh công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách tiền lương theo quy định của
pháp luật trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước và tổ
chức chính trị - xã hội. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp cố tình né
tránh, thực hiện không nghiêm túc hoặc không thực hiện nhiệm vụ được giao trong
thực hiện cải cách chính sách tiền lương gắn với cải cách hành chính, sắp xếp
tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập và
vi phạm quy định của pháp luật về tiền lương. Nghiên cứu xây dựng bộ chỉ số và
cơ chế báo cáo định kỳ, công khai, minh bạch thông tin, số liệu về tổ chức bộ
máy nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, các khoản chi tiền lương trong khu vực
công.
(7) Tăng cưòng sự lãnh đạo của Đảng; phát huy vai trò của nhân
dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chửc chính trị - xã hội
-
Trên cơ sở quan
điểm, chủ trương của Đảng, các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến địa phương lãnh đạo triển khai
thực hiện đồng bộ các giải pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị
mình bảo đảm thực hiện cải cách chính sách tiền lương đạt kết quả, mang lại
hiệu ứng tích cực cho nền kinh tế.
-
Phát huy vai trò
của các tầng lớp nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
trong giám sát, phản biện việc thực hiện cải
cách chính sách tiền lương đồng bộ với sắp xép tổ chức bộ máy, tinh giản biên
chế, đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý đổi với các đơn vị sự nghiệp công lập.
-
Nâng cao vai trò và
năng lực của tổ chức công đoàn là tổ chức đại diện của người lao động trong
quan hệ lao động phù hợp với nền KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
VI. TỔ
CHỨC THỰC HIỆN (không giới thiệu, nghiên cứu trong tài liệu)./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét