Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2018

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 7 KHÓA XII, Nghị quyết số 28-NQ/TW


ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU
NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 7 KHÓA XII
Nghị quyết s 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội”
Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW vềcải cách chính sách bảo hiểm xã hội góp phần bảo đảm an sinh xã hội, thức đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền vững đất nước”. Đây là Nghị quyết chuyên đề của Trung ương về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, nhằm cụ thể hóa mục tiêu Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra.
Một là, vì sao Ban Chấp hành Trung ương phải ban hành Nghị quyết về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội?
Hai là, bối cảnh cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
Ba là, tình hình và nguyên nhân.
Bốn là, quan điểm, mục tiêu của Nghị quyết và nội dung cải cách CSBHXH.
Năm là, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu.
I. VÌ SAO BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG PHẢI BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT VỀ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI?
-   Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) bao gồm: bảo hiểm hưu trí - tử tuất; bảo hiểm thất nghiệp; bảo hiểm ốm đau, thai sản và bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Với vai trò là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm phát triển và coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực đối với sự phát triển bền vững đất nước cũng như thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
-   Theo thông lệ quốc tế trong xây dựng hệ thống chính sách BHXH đều tiến tới ba nguyên tắc, đó là
(1) Công bằng hướng tới mở rộng độ bao phủ của chính sách- mọi người lao động đều có thể tiếp cận, tham gia và hưởng lợi từ chính sách BHXH;
(2) Tuân thủ nguyên tắc đóng - hưởng và đảm bảo bền vững về tài chính - đảm bảo khả năng cân đối giữa mức đóng góp và mức hưởng thụ từ hệ thống;
(3) Có sự chia sẻ giữa những thành viên tham gia vào hệ thống BHXH, chia sẻ giữa các chính sách trong hệ thống.
-  Trong suốt thời kỳ thực hiện đổi mới, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1995 đến nay, thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, chính sách BHXH đã được thể chế hóa theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn về chế độ, chính sách, về cơ ché quản lý, cơ chế tài chính nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập.
-   Để đảm bảo các mục tiêu về an sinh xã hội, cần có những cải cách trong thiết kế hệ thống và tổ chức thực hiện chính sách BHXH, thực sự là một trụ cột chính của chính sách an sinh xã hội; góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo mọi người lao động đều được tiếp cận và thụ hưởng quyền an sinh xã hội, chia sẻ thành quả phát triển kinh tế - xã hội; tuân thủ nguyên tắc công bằng, bền vững tài chính và chia sẻ rủi ro của hệ thống BHXH là vấn đề cấp thiết trước mắt cũng như lâu dài.
II. BỐI CẢNH CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH BHXH
-  Cải cách chính sách BHXH diễn ra trong bối cảnh cả nước đang tích cực triển khai thực hiện các chủ trương lớn về phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng như:
           + Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện 3 đột phá chiến lược; nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch lao động; Nâng cao chất lượng an sinh, chủ động đối phó với các vấn đề xã hội do già hóa dân số; Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo định hướng phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế; Chủ trương tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng đến năm 2021 giảm tối thiểu 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2015; đến năm 2025 tiếp tục giảm tối thiểu bình quân cả nước 10% đơn vị sự nghiệp công lập và 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2021; Chủ trương về công tác dân số trong tình hình mới theo hướng phát huy tối đa lợi thế cơ cấu dân số vàng, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước nhanh, bền vững và thích ứng với già hóa dân số; xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động; tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động di cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản; phát triển thị trường, đa dạng hóa các gói bảo hiểm, bao gồm bảo hiểm nhà nước, bảo hiểm thương mại với nhiều gói dịch vụ khác nhau để các nhóm dân số đặc thù đều bình đẳng trong tiếp cận, tham gia và thụ hưởng các dịch vụ phúc lợi, an sinh xã hội;
-  Việt Nam đang ở trong giai đoạn dân số vàng nhưng cũng đã bước sang giai đoạn già hóa dân số với tốc độ diễn ra khá nhanh và được coi là nhanh nhất nếu so với các nước. Theo ước tính, năm 2017 số người cao tuổi (60 tuổi trở lên) chiếm 11% tổng dân số; con số này sẽ đạt 17% vào năm 2020 (chỉ sau khoảng hơn 10 năm); đạt 25% vào năm 2050 (khi đó cứ 4 người dân có 1 người từ 60 tuổi trở lên).
Bên cạnh đó, thời gian chuẩn bị cho già hóa của Việt Nam rất ngắn. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới: Thời gian chuẩn bị khi có 7% dân số là người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên sang 14% dân số là người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên của Pháp là 115 năm; của Mỹ là 69 năm; của Trung Quốc là 25 năm; Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Indonexia đều là khoảng 20 năm; riêng Việt Nam chỉ là khoảng 15 năm.
Già hóa dân số tác động trực tiếp đến thị trường lao động, cả về quy mô, cơ cấu, loại hình việc làm và sự bền vững của các hệ thống hưu trí. Tuổi thọ gia tăng đã đặt hệ thống chính sách BHXH trước những yêu cầu cần phải cải cách mà trọng tâm là tính đến quan hệ giữa thời gian tham gia và thời gian thụ hưởng.
-  Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang là xu thế lớn trên toàn cầu, với động lực là sự phát triển về khoa học - công nghệ. Trong quá trình hội nhập sâu rộng với thế giới, Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều nhưng cũng chịu tác động sâu sắc khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thành hiện thực. Thị trường lao động sẽ gặp những thách thức lớn về chất lượng, cung, cầu và cơ cấu lao động, làm thay đổi lớn về quan hệ lao động. Xu hướng tự tạo việc làm và chuyển đổi quan hệ lao động sang quan hệ kinh tế không có hợp đồng lao động (Uber, Grab, các kỹ sư tin học lập trình...) sẽ gia tăng. Đây là một thách thức lớn đối với BHXH trong cách thức tiếp cận và quản lý đối tượng tham gia và thụ hưởng, trong thực hiện mở rộng diện bao phủ và trong cưỡng chế thi hành pháp luật BHXH. Cùng với đó là quá trình dịch chuyển lao động quốc tế, gia tăng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và số người nước ngoài vào Vỉệt Nam làm việc, đòi hỏi sự hoà nhập về chính sách xã hội, đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn chung về an sinh xã hội.
-  Quy mô của khu vực phi chính thức ở Việt Nam còn lớn với đặc điểm là việc làm bấp bênh, thu nhập thấp và không thường xuyên, thời gian làm việc kéo dài, điều kiện làm việc không đảm bảo, thường không có hợp đồng lao động, không có BHXH, không tham gia công đoàn, không có liên hệ nhiều với các khu vực khác của nền kinh tế và do đó thường không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật lao động và bảo hiểm xã hội.
Quá trình tái cấu trúc nền kinh tế (chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu) và tăng cường hội nhập đòi hỏi lực lượng lao động phải có chất lượng cao hơn; những lao động không đáp ứng yêu cầu về trình độ, kỹ năng có nguy cơ bị mất việc làm ở khu vực chính thức và phải tìm việc làm ở khu vực phi chính thức.
Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa và hội nhập làm gia tăng các luồng di cư nội địa của lao động nông nghiệp, lao động chưa qua đào tạo vào các khu đô thị, các thành phố lớn, nếu không có những giải pháp và các chính sách an sinh xã hội, đặc biệt bảo hiểm xã hội kịp thời, sẽ gây ra những hệ lụy về kinh tế, xã hội trước mắt cũng như lâu dài.
-  Thực hiện cải cách chính sách tiền lương đối với khu vực hành chính và sự nghiệp công dự kiến thay đổi theo hướng thực hiện trả lương theo vị trí việc làm và bằng số tiền cụ thể như đối với khu vực sản xuất kinh doanh, không còn mức lương cơ sở như hiện nay. Trong khi đó, chính sách bảo hiểm xã hội hiện nay có nhiều nội dung gắn với mức lương cơ sở (căn cứ tính mức đóng, căn cứ tính mức hưởng một số loại trợ cấp) sẽ cần phải điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh tiền lương mới. Ngoài ra, kinh tế trong nước còn khó khăn, nguồn lực ngân sách nhà nước hạn hẹp; thu nhập của nhiều người dân còn thấp và chưa ổn định.
III. TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Ưu điểm
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và người lao động; sự hỗ trợ, hợp tác hiệu quả của các quốc gia, tổ chức quốc tế, hệ thống chính sách, pháp luật về BHXH đã không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần quan trọng vào nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền vững đất nước trong quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế. Cụ thể là:
Đã hình thành hệ thống chính sách BHXH khá đồng bộ, bao quát hầu hết các chế độ BHXH theo thông lệ quốc té: Gồm cả loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; đối với cả người có quan hệ lao động và người không có quan hệ lao động; cho cả khu vực kinh tế chính thức và phi chính thức.
Hệ thống chính sách BHXH, các quan hệ BHXH được thiết kế, điều chỉnh và vận hành ngày càng phù hợp hơn.
Với vai trò chủ đạo của Nhà nước, sự tham gia của người lao động và người sử dụng lao động, Quỹ BHXH đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa những người lao động cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH. Tổng số tiền chi cho các chế độ hưu trí, tử tuất, mất sức lao động và trợ cấp hàng tháng khác năm 2017 từ Quỹ BHXH là 132.140 tỷ đồng, tăng hơn 9 lần so với thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2007, là năm đầu tiên thực hiện Luật BHXH. Tổng số chi hưu trí, tử tuất năm 2017 từ nguồn ngân sách nhà nước là 44.875 tỷ đồng, chỉ còn 25,35% so với tỷ lệ 56,2% tại thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2007.
Diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật và quy mô tham gia BHXH trên thực tế ngày càng được mở rộng. Tính đến năm 2017, tổng số người tham gia BHXH là 13,9 triệu người (trong đó: BHXH bắt buộc là 13,6 triệu người, BHXH tự nguyện là 0,3 triệu người), tăng hơn 2,3 lần so với thời điểm Luật BHXH số 71/2006/QH11 có hiệu lực (ngày 01 tháng 01 năm 2007); số người tham gia BHTN là 11,7 triệu người. Đến nay, đã và đang thực hiện chế độ, chính sách cho trên 3 triệu người hưởng chế độ hưu trí, BHXH hàng tháng. Trong năm 2017, có 9,1 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe; 0,7 triệu lượt người hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp; trên 56 nghìn người hưởng chế độ tai nạn, bệnh nghề nghiệp hàng tháng.
Mô hình tổ chức hệ thống BHXH với việc tách cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan tổ chức thực hiện chính sách về cơ bản là phù hợp với thông lệ quốc tế, đã phát huy được vai trò và tính hiệu quả trong từng khâu thiết kế, xây dụng, hoạch định đến tổ chức thực hiện chính sách, thu, chi và quản lý Quỹ BHXH. Năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH được tăng cường. Hệ thống pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật về BHXH thường xuyên được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật BHXH được chú trọng hơn; công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế về BHXH được đẩy mạnh.
2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu quan trọng nêu trên, việc tổ chức thực hiện chủ trương đổi mới, nâng cao hiệu quả chính sách BHXH cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém như: Diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật cũng như quy mô tham gia BHXH trên thực tế còn thấp, chưa hướng đến bao phủ toàn dân. Hệ thống BHXH về cơ bản còn thiết kế đơn tầng, sự kết nối giữa chính sách BHXH với các chính sách xã hội khác chưa đồng bộ, chặt chẽ. BHXH bắt buộc còn bỏ sót một số nhóm đối tượng có nhu cầu và có khả năng tham gia. Trên thực tế, năm 2017 vẫn còn trên 70% chưa tham gia. Mục tiêu đến năm 2020 có 50% lực lượng lao động tham gia BHXH theo Nghị quyết số 15-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 Khóa XI và Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị không đạt được. Các nguyên tắc công bằng, đóng - hưởng, chia sẻ và bảo đảm bền vững tài chính chưa được quán triệt đầy đủ, quỹ hưu trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong dài hạn, chính sách BHTN nặng về giải quyết hậu quả khi người lao động thất nghiệp mà chưa chú ý thỏa đáng đến phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp.
Còn có sự không công bằng trong công thức tính lương hưu giữa nam và nữ, giữa lao động khu vực Nhà nước và khu vực ngoài Nhà nước, việc thể chế hóa nguyên tắc này còn chậm (Luật BHXH năm 2014 quy định người lao động trong khu vực Nhà nước khi nghỉ hưu, tính bình quân toàn bộ quá trình đóng BHXH như người lao động khu vực ngoài Nhà nước. Tuy nhiên, quy định này chỉ áp dụng đối với những người bắt đầu tham gia BHXH từ năm 2025. Như vậy, người lao động trong khu vực Nhà nước sớm nhất tính bình quân toàn bộ quá trình đóng BHXH là người nghỉ hưu từ năm 2045), tổ chức thực hiện còn vướng mắc (Điều 60, khoản 2 Điều 56 và khoản 2 Điều 74 của Luật BHXH năm 2014).
Thiết kế CSBH hưu trí nhiều điểm chưa phù hợp:
(i) Quy định thời gian tham gia BHXH để được hưởng lương hưu quá dài (20 năm) trong khi điều kiện hưởng BHXH một lần khá dễ dàng (Theo quy định hiện hành, NLĐ sau một năm nghỉ việc, nếu có nhu cầu thì được nhận BHXH một lần), mức hưởng BHXH một lần cao (Mức hưởng BHXH một lần ở Việt Nam tính trên cả phần đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, trong khi kinh nghiệm của các nước khi cho nhận BHXH một lần chỉ được nhận phân đóng góp của người lao động mà không được nhận phần đóng góp của người sử dụng lao động);
(ii) Công thức tính lương hưu thiết kế chưa hợp lý, nặng về nguyên tắc đóng hưởng, chưa chú ý thỏa đáng nguyên tắc chia sẻ để thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa những người hưởng lương hưu (Cách tính lương hưu ở Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào tiền lương trong quá khứ của cá nhân người lao động dẫn đến người đi làm có lương cao thì khi nghỉ hưu nhận được lương hưu cao và ngược lại. Tính đến cuối năm 2017, người có lương hưu cao nhất ờ nước ta là hơn 100 triệu đồng/tháng; người có lương hưu thấp nhất là 1,3 triệu đồng/tháng. Lương hưu tại một số nước, chẳng hạn như Hàn Quốc và Trung Quốc được tính dựa trên hai yếu tố là lương của bản thân người lao động và lương của những người cùng thế hệ. Điều này dẫn đến người có tiền lương khi đi làm thấp, khi nghỉ hưu vẫn được chia sẻ để có một mức lương hưu khấm khá hơn);
(iii) số người hưởng chế độ hưu trí, tử tuất tăng nhanh, số người mới tham gia tăng chậm (Năm 1996, có 217 người đang đóng BHXH thì chỉ có 1 người đang hưởng chế độ hưu trí; năm 2006 tỷ lệ này là 12,6/1 và năm 2016 là 8,5/1), số người hưởng BHXH một lần cao (Trong giai đoạn 2012 -2017, mỗi năm bình quân có 628 nghìn người hưởng BHXH một lần dẫn đến số người tham gia BHXH tăng thêm chi là 594 nghìn người; tức là cứ có 2 người mới tham gia vào BHXH thì có 1 người rời khỏi hệ thống); mức hưởng lương hưu cao và thời gian hưởng quá dài trong mối tương quan với mức đóng và thời gian đóng. Tuổi thọ bình quân tăng nhanh nhưng tuổi nghỉ hưu được quy định từ năm 1960, đến nay đã gần 60 năm vẫn không thay đổi tạo áp lực cho khả năng cân đối của Quỹ. BHTN chưa thực sự trở thành công cụ quản trị thị trường lao động. Chính sách BHTN chú trọng các giải pháp giải quyết hậu quả thông qua hỗ trợ người lao động nhận TCTN, đào tạo đáp ứng yêu cầu của công việc mới, giới thiệu việc làm mà chưa chú ý thỏa đáng đến các giải pháp phòng ngừa như hỗ trợ doanh nghiệp duy trì việc làm, tránh sa thải lao động, thu hút lao động thất nghiệp dài hạn khó tìm việc làm... như thông lệ các nước (Chính sách BHTN của các nước đều thiết kế các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp để duy trì việc làm, tránh sa thải lao động, thu nhận lao động thất nghiệp dài ngày khó tìm việc làm, hỗ trợ doanh nghiệp các dự án tuyển dụng lao động mới ở khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao... để giảm thất nghiệp; chính sách hỗ trợ người lao động thất nghiệp nhận trợ cấp thất nghiệp, học nghề, chuyển đổi việc làm. Kết hợp cả phòng ngừa, giảm thiểu và giải quyết hậu quả thất nghiệp là mục tiêu chung trong chính sách BHTN theo thông lệ của các nước. Thiếu sự tham gia của doanh nghiệp thì không thể giải quyết bài toán thất nghiệp).
-     Chưa thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập với tiền lương của người đang làm việc (theo Kết luận số 63-KL/TW ngày 27 tháng 5 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI và Luật Bảo hiểm xã hội). Việc điều chỉnh tiền lương hưu thời gian qua thường được tiến hành đồng thời với điều chỉnh tiền lương khu vực hành chính nhà nước, mức tăng thường bằng mức tăng của tiền lương khu vực hành chính nhà nước, làm tăng chi cả từ ngân sách nhà nước (Theo quy định của Luật BHXH thì NSNN bảo đảm kinh phí chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH đối với những người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH trước ngày 01 tháng 01 nãm 1995. Tổng kinh phí chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH từ ngân sách nhà nước năm 2017 là gần 45 nghìn tỷ đồng, trong đó chi cho điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng khoảng 1,5 nghìn tỷ đồng) và Quỹ BHXH, tạo ra những bất hợp lý mới như người có mức lương hưu cao được tăng quá nhiều, người có mức lương hưu thấp được tăng quá ít dẫn đến gia tăng khoảng cách tuyệt đối về mức lương hưu giữa những người đang hưởng càng lớn (Tính đến cuối năm 2017, có khoảng 2,38 triệu người đang hưởng lương hưu, trong đó có hơn 210 nghìn người (chiếm 9%) có lương hưu dưới 2,5 triệu đồng/tháng; có gần 350 nghìn người (chiếm 15%) có lương hưu trên 6 triệu đồng/tháng).
-     Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước còn hạn chế. Thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của cấp ủy, chính quyền các cấp. Chưa thực hiện giao chỉ tiêu phát triển đối tượng BHXH cho các địa phương; sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan Kế hoạch - Đầu tư, Tài chính (Thuế), Lao động - Thương binh và Xã hội với cơ quan BHXH còn chưa chặt chẽ.
Tình trạng vi phạm pháp luật, trốn đóng, nợ đóng BHXH, nhất là khu vực doanh nghiệp vẫn còn khá phổ biến (Ước tính cả nước đến cuối năm 2017 đang có hơn 600.000 doanh nghiệp hoạt động nhưng chỉ có 228.552 doanh nghiệp (chỉ bằng 38% số doanh nghiệp đang hoạt động) đóng BHXH), chậm được khắc phục.
Nợ đóng BHXH còn lớn (Tổng số nợ BHXH có tính lãi tính đến ngày 31 tháng 12 nãm 2017 là 5.973 tỷ đồng, trong đó, nợ BHXH bắt buộc là 5.737 tỷ đồng, nợ BHTN là 236 tỷ đồng).
Xuất hiện tình trạng trục lợi từ Quỹ BHXH; doanh nghiệp và người lao động thỏa thuận không đóng hoặc giảm mức đóng vào Quỹ BHXH. Các chế tài xử lý vi phạm pháp luật BHXH còn chưa đủ mạnh và thực thi chưa nghiêm. Việc giao công đoàn khởi kiện doanh nghiệp nợ BHXH hiệu quả không cao và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế (Các nước thường xử phạt nợ đóng, trốn đóng BHXH rất nặng; không giao Công đoàn khởi kiện vì một số trường hợp người lao động chưa phải là đoàn viên công đoàn nên không thể ủy quyền).
-    Tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHTN còn nhiều hạn chế. Cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và nhân sự của bộ máy thực hiện BHTN còn bất hợp lý, phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, chưa phù hợp với nguyên lý bảo hiểm và thông lệ quốc tế nhưng chậm được sửa đổi, chưa phát huy được các chức năng tích cực của chính sách. BHTN chưa thực sự hỗ trợ được người lao động và doanh nghiệp rút ngắn thời gian tìm việc, thời gian tuyển người, chưa hỗ trợ được mục tiêu duy trì và mở rộng diện bao phủ BHXH, chưa bảo vệ hiệu quả việc làm cho lao động trong nước.
Nhận thức của một bộ phận người lao động và người sử dụng lao động về vai trò, tác dụng của BHXH chưa đầy đủ. Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật chưa có những đổi mới mạnh mẽ để mang lại hiệu quả tốt hơn về phát triển đối tượng, tạo niềm tin vững chắc để thu hút người lao động tham gia hệ thống BHXH.
3. Nguyên nhân
Những hạn chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:(i) Chính sách BHXH của nước ta mới đựợc hình thành và phát triển cùng với quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi tư duy, lý luận - nhận thức về BHXH cần quá trình từng bước hoàn chỉnh; năng lực thiết kế hệ thống còn hạn chế. Việc hình thành, hoàn thiện chính sách BHXH đòi hỏi thời gian dài trong khi chúng ta mới thực hiện được hơn 20 năm. Vì vậy, việc xây dựng chính sách, pháp luật, thiết kế bộ máy tổ chức thực hiện BHXH còn lúng túng, thiếu nhất quán, chưa đồng bộ. (ii) Đặc trưng cơ cấu lao động ở nước ta là phần lớn làm việc ở khu vực không có quan hệ lao động. Thu nhập của số đông người dân còn thấp và không ổn định, áp lực chi tiêu trước mắt lớn. Mạng lưới an sinh xã hội phi chính thức dựa trên mô hình gia đình truyền thống còn phổ biến. Do đó, không ít người dân chưa quan tâm tham gia BHXH. (iii) Năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về BHXH nhiều mặt còn hạn chế. Nhận thức còn chưa đầy đủ, sâu sắc, chưa coi công tác này là một trụ cột trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Khả năng phân tích, dự báo còn bất cập. Chưa làm tốt công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn và kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm, (iv) Công tác thông tin, truyền thông chưa được chú trọng. Nhận thức về BHXH trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của các chủ thể tham gia BHXH còn nhiều hạn chế, nhất là ý thức về quyền lợi, trách nhiệm đóng góp BHXH của người sử dụng lao động và người lao động.
IV. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, MỤC TIÊU CỦA NGHỊ QUYẾT VÀ NỘI DUNG CẢI CÁCH CSBHXH
1. Quan điểm
(1)             BHXH là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tién bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước.
-       Phát triển hệ thống CSBHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế; huy động các nguồn lực xã hội theo truyền thống tương thân tương ái của dân tộc; hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững.
(2)             Cải cách CSBHXH vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài; kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển và phải đặt trong mối tương quan với đổi mới, phát triển các chính sách xã hội khác, nhất là chế độ tiền lương, thu nhập, trợ giúp xã hội để mọi công dân đều được bảo đảm an sinh xã hội.
(3)             Phát triển hệ thống tổ chức thực hiện CSBHXH bảo đảm tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại, nâng cao tính hấp dẫn, củng cố niềm tin và sự hài lòng của người dân cũng như các chủ thể tham gia bảo hiểm xã hội.
(4)             Thực hiện tốt CSBHXH là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân.
2. Mục tiêu
a) Mục tiêu tổng quát:
Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội để bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển hệ thống thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, tin cậy và minh bạch.
b) Mục tiêu cụ thể
-  Giai đoạn đến năm 2021, phấn đấu có khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH (trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 1% lực lượng lao động trong độ tuổi); đến năm 2025 có khoảng 45% (trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXHTN chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ tuổi) và đến 2030 có khoảng 60% (trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXHTN khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi).
-  Giai đoạn đến năm 2021, phấn đấu có khoảng 45% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hàng tháng và trợ cấp xã hội (lương hưu xã hội); đến năm 2025 có khoảng 55% và đến 2030 có khoảng 60%.
- Giai đoạn đến năm 2021, tỷ lệ giao dịch điện tử đạt 100%. Thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Phấn đấu giảm số giờ giao dịch giữa cơ quan BHXH với doanh nghiệp bằng mức ASEAN 4.
-  Giai đoạn đến năm 2021, phấn đấu chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia BHXH đạt mức 80%; đén năm2025 đạt mức 85% và đến 2030đạt mức 90%.
3. Nội dung cải cách
Qua tổng kết lý luận và thực tiễn phát triển bảo hiểm xã hội ở nước ta từ năm 1995 đến nay; kết quả nghiên cứu khảo sát sâu rộng ở trong nước và ngoài nước với sự tham gia góp ý của nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức, chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế đã làm rõ những nội dung cơ bản về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội của nước ta trong thời gian tới. Cụ thể là:
Thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân; bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ.
(1)   Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng
-      Trợ cấp hưu trí xã hội: Ngân sách nhà nước cung cấp một khoản trợ cấp cho người cao tuổi không có lương hưu, hoặc bảo hiểm xã hội hằng tháng. Có chính sách huy động các nguồn lực xã hội đóng thêm để các đối tượng này có mức hưởng cao hơn; điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội phù hợp với khả năng của ngân sách.
-    Bảo hiểm xã hội cơ bản, bao gồm BHXH bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện: Bảo hiểm xã hội bắt buộc (với các chế độ hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, ốm đau, thai sản, thất nghiệp) dựa trên đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Bảo hiểm xã hội tự nguyện (với các chế độ hưu trí, tử tuât hiện nay, từng bước mở rộng sang các chế độ khác) dựa trên đóng góp của người lao động không có quan hệ lao động; có sự hỗ trợ phù hợp từ ngân sách nhà nước cho nông dân, người nghèo, người có thu nhập thấp, lao động khu vực phi chính thức để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội; nâng cao ý thức, trách nhiệm của người lao động đối với việc tự bảo đảm an sinh cho bản thân. Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội theo lộ trình điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu phù hợp từng thời kỳ.
-    Bảo hiểm hưu trí bổ sung là chế độ hưu trí tự nguyện theo nguyên tắc thị trường, tạo điều kiện cho người sử dụng lao động và người lao động có thêm sự lựa chọn tham gia đóng góp để được hưởng mức lương hưu cao hơn.
(2)   Sửa đỗi quy định về điều kiện thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu để hưởng chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt đồng thời với việc điều chỉnh cách tính lương hưu theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sang các nhóm đối tượng khác,
Sửa đổi điều kiện hưởng ché độ hưu trí theo hướng giảm dần số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống 15 năm, hướng tới còn 10 năm với mức hưởng được tính toán phù hợp nhằm tạo điều kiện cho người lao động cao tuổi, có số năm tham gia bảo hiểm xã hội thấp được tiếp cận và thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, hoàn thiện cách tính lương hưu, bảo đảm công bằng giữa nam và nữ, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa người có mức lương cao với người có mức lương thấp để thu hẹp khoảng cách về thu nhập trong các đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Rà soát, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đổi với các nhóm chủ hộ kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý, điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao động làm việc theo chế độ linh hoạt.
(3)   Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội cũng như tính linh hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ
Nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện CSBH thất nghiệp, chú trọng không chỉ các giải pháp xử lý hậu quả thông qua việc chi trả trợ cấp thất nghiệp, đào tạo đáp ứng yêu cầu của công việc mới, giới thiệu việc làm mà cần chú ý thoả đáng đến các giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp thông qua việc hỗ trợ doanh nghiệp duy trì sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm cho người lao động. Nghiên cứu thiết kế các gói bảo hiểm xã hội tự nguyện ngắn hạn linh hoạt để người lao động có nhiều sự lựa chọn tham gia và thụ hưởng. Mở rộng các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện, tạo điều kiện chuyển đổi thuận lợi giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và BHXH bắt buộc, hướng tới chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với toàn bộ người lao động có việc làm, có thu nhập và tiền lương khi có đủ điều kiện cần thiết.
(4)   Cải cách trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách nhằm củng cố niềm tin, tăng mức độ hài lòng của người tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội
Xây dựng CSBHXH bảo đảm sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa các nhóm đối tượng tham gia; tăng cường sự chia sẻ giữa các nhóm đối tượng thụ hưởng nhằm khắc phục bất hợp lý, chênh lệch quá lớn về mức hưởng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hoá các quy trình, thủ tục đăng ký, đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ bảo hiểm xã hội theo hướng thân thiện, công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
(5)   Đẩy nhanh quá trình gia tăng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội trong khu vực phi chính thức
Đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số 10- NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu thiết kế các gói bảo hiểm xã hội ngắn hạn với mức đóng, mức hưởng, phương thức giao dịch phù hợp với người lao động trong khu vực phi chính thức.
(6)   Sửa đổi, khắc phục các bất hợp lý về chế độ bảo hiểm hưu trí hiện nay theo hướng linh hoạt hơn về điều kiện hưởng chế độ hưu trí, chặt chẽ hơn trong quy định hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần, tăng tuổi nghỉ hưu bình quân thực tế của người lao động
Có quy định phù hợp để giảm tình trạng hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo hướng tăng quyền lợi nếu bảo lưu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ hưu trí, giảm quyền lợi nếu hưởng bảo hiểm xã hội một lần. Sửa đổi các quy định để khuyến khích người lao động tham gia bảo hiểm xã hội thời gian dài hơn, từng bước tăng tuổi nghỉ hưu bình quân, tăng tỉ lệ giảm trừ tiền lương hưu đối với người lao động muốn nhận chế độ hưu trí sớm.
(7)   Thực hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình
Điều chỉnh tuổi nghỉ hưu cần có tầm nhìn dài hạn và có lộ trình phù hợp với tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thất nghiệp; không gây tác động tiêu cực đến thị trường lao động; bảo đảm số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số; bình đẳng giới; cân đối Quỹ BHXH trong dài hạn; xu hướng già hoá dân số; tính chất, loại hình lao động và giữa các ngành nghề, lĩnh vực.
Từ năm 2021, thực hiện điều chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu tăng tuổi nghỉ hưu chung, thu hẹp dần khoảng cách về giới trong quy định tuổi nghỉ hưu; đối với những ngành nghề đặc biệt, người lao động được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu chung.
(8)   Sửa đỗi các quy định về mức đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để đạt mục tiêu mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội
Sửa đổi quy định về căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của khu vực doanh nghiệp ít nhất bằng khoảng 70% tổng tiền lương và các khoản thu nhập khác có tính chất lương của người lao động để khắc phục tình trạng trốn đóng, đóng không đủ bảo hiểm xã hội, ảnh hưởng đến khả năng cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội và quyền lợi của người lao động.
Nghiên cứu điều chỉnh tỉ lệ đóng vào Quỹ bảo hiểm xã hội theo hướng hài hoà quyền lợi giữa người sử dụng lao động và người lao động.
(9)   Điều chỉnh tỉ lệ tích lũy để đạt tỉ lệ hưởng lương hưu tối đa phù hợp với thông lệ quốc tế
Sửa đổi cách tính lương hưu theo hướng giảm tỉ lệ tích luỹ, bảo đảm khả năng cân đối quỹ hưu trí trong dài hạn, phù hợp với thông lệ quốc tế. Có lộ trình điều chỉnh kéo dài thời gian tham gia bảo hiểm xã hội thực tế, bảo vệ quyền lợi của người hưởng chế độ hưu trí theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng và chia sẻ phù hợp.
(10) Đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền vững, hiệu quả
Tăng cường công tác đánh giá, dự báo tài chính, hiệu quả đầu tư các quỹ bảo hiểm xã hội; đa dạng hoá danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền vững và hiệu quả; ưu tiên đầu tư vào trái phiếu chính phủ, nhất là trái phiếu chính phủ dài hạn; nghiên cứu từng bước mở rộng sang các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao, từng bước và có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của Quỹ thông qua uỷ thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế bảo đảm an toàn, bền vững.
(11)   Thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hưởng chia sẻ
Thực hiện điều chỉnh trợ cấp hưu trí xã hội theo khả năng cân đối của ngân sách nhà nước; lương hưu cơ bản được điều chỉnh chủ yếu dựa trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng, khả năng của Quỹ bảo hiểm xã hội và ngân sách nhà nước; quan tâm điều chỉnh thoả đáng đối với nhóm đối tượng có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước năm 1995 nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch lương hưu giữa người nghỉ hưu ở các thời kỳ.
Trải qua các giai đoạn phát triển, chính sách BHXH đã đạt được những kết quả tích cực, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề lớn cần phải cải cách, điều chỉnh nhiều nội dung để khắc phục những hạn chế, yếu kém, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với xu hướng phát triển và bối cảnh mới. Căn cứ vào vào các nội dung cơ bản về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội của nước ta và để đạt được các mục tiêu nêu trên, trong những năm tới cần thực thiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
(1)             Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chính sách bảo hiểm xã hội
Cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền; đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội để cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ sự cần thiết, lợi ích, vai trò, ý nghĩa và những nội dung cơ bản của cải cách chính sách bảo hiểm xã hội đối với bảo đảm an sinh xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo sự đồng thuận, thống nhất trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.
(2)             Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm, BHXH
Thể chế hoá các chủ trương và hoàn thiện pháp luật, chính sách về bảo hiểm xã hội phải kết hợp với hoàn thiện pháp luật, chính sách về chế độ tiền lương, việc làm, chính sách người có công với cách mạng và các chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực có liên quan khác.
Sửa đổi, bổ sung pháp luật về bảo hiểm xã hội theo hướng tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội toàn dân; thiết kế hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng; hoàn thiện các quy định về đóng - hưởng bảo hiểm xã hội, bảo đảm các nguyên tắc công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Rà soát, sửa đổi các quy định về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, gắn với việc đẩy mạnh đàm phán, ký kết hiệp định song phương về bảo hiểm xã hội.
Sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách việc làm theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động duy trì việc làm, bảo đảm quyên lợi chính đáng của doanh nghiệp và người lao động, khăc phục tình trạng gian lận, trục lợi bảo hiêm thât nghiệp. Có quy định cụ thê và cơ chê quản lý chặt chẽ việc đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội, bảo đảm việc đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội an toàn, bền vững, hiệu quả.
Hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, nhất là đối với các hành vi trốn đóng, nợ đóng, trục lợi bảo hiểm xã hội theo hướng cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội và cơ quan quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội có thẩm quyền xử phạt các doanh nghiệp trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi bảo hiểm xã hội; đồng thời, các doanh nghiệp và người lao động có quyền khiếu nại, hoặc khởi kiện cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội nếu phát hiện có sai phạm trong thực hiện chính sách BHXH.
(3)      Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH
Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội, nhất là trong việc hoạch định chiến lược phát triển, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội. Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, kịp thời xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh.
Nâng cao tính tuân thủ pháp luật về bảo hiểm xã hội thông qua thực hiện đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế, tư pháp để tăng số người tham gia bảo hiểm xã hội, đi đôi với chú trọng tăng số người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội, đặc biệt là chế độ hưu trí. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là các hành vi trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi tiền bảo hiểm xã hội.
Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để đẩy mạnh việc phân cấp cho các cơ quan BHXH; thực hiện giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH cho các địa phương; phân định rõ quản lý nhà nước với quản trị bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH.
Tăng cường công tác phối hợp, chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu giữa cơ quan quản lý nhà nước vê đâu tư, tài chính, thuê, lao động đê nâng cao hiệu quả quản lý đối tượng tham gia BHXH và thực thi chính sách BHXH. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về BHXH. Xây dựng cơ sở dữ liệu về BHXH, bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng cung ứng dịch vụ của cơ quan BHXH.
(4)      Nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chỉnh sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp
Hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH, bảo hiểm thất nghiệp theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu BCHTW khoá XII Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động của Hội đông quản lý BHXH. Thực hiện chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán và thông tin báo cáo về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên tất cả các lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; hoàn thiện, đẩy mạnh kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm với các hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện chính sách và công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách. Tiếp tục hiện đại hoá quản lý bảo hiểm xã hội, đầu tư phát triển công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Kịp thời ngăn chặn tình trạng gian lận, trục lợi chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
Triển khai có hiệu quả các chính sách bảo hiểm thất nghiệp, phát huy đầy đủ các chức năng của bảo hiểm thất nghiệp, bảo đảm bảo hiểm thất nghiệp thực sự là công cụ quản trị thị trường lao động. Chi phí tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp lấy từ nguồn Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, không lấy từ ngân sách nhà nước. Có cơ chế tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, nhất là trong bối cảnh thị trường lao động biến động nhanh chóng và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang làm biến đổi cấu trúc của thị trường lao động.
(5)   Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội, tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội.
VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN (không giới thiệu, nghiên cứu trong tài liệu)./.ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU
NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 7 KHÓA XII
Nghị quyết s 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội”
Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW vềcải cách chính sách bảo hiểm xã hội góp phần bảo đảm an sinh xã hội, thức đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền vững đất nước”. Đây là Nghị quyết chuyên đề của Trung ương về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, nhằm cụ thể hóa mục tiêu Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra.
Một là, vì sao Ban Chấp hành Trung ương phải ban hành Nghị quyết về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội?
Hai là, bối cảnh cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
Ba là, tình hình và nguyên nhân.
Bốn là, quan điểm, mục tiêu của Nghị quyết và nội dung cải cách CSBHXH.
Năm là, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu.
I. VÌ SAO BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG PHẢI BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT VỀ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI?
-   Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) bao gồm: bảo hiểm hưu trí - tử tuất; bảo hiểm thất nghiệp; bảo hiểm ốm đau, thai sản và bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Với vai trò là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm phát triển và coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực đối với sự phát triển bền vững đất nước cũng như thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
-   Theo thông lệ quốc tế trong xây dựng hệ thống chính sách BHXH đều tiến tới ba nguyên tắc, đó là
(1) Công bằng hướng tới mở rộng độ bao phủ của chính sách- mọi người lao động đều có thể tiếp cận, tham gia và hưởng lợi từ chính sách BHXH;
(2) Tuân thủ nguyên tắc đóng - hưởng và đảm bảo bền vững về tài chính - đảm bảo khả năng cân đối giữa mức đóng góp và mức hưởng thụ từ hệ thống;
(3) Có sự chia sẻ giữa những thành viên tham gia vào hệ thống BHXH, chia sẻ giữa các chính sách trong hệ thống.
-  Trong suốt thời kỳ thực hiện đổi mới, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1995 đến nay, thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, chính sách BHXH đã được thể chế hóa theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn về chế độ, chính sách, về cơ ché quản lý, cơ chế tài chính nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập.
-   Để đảm bảo các mục tiêu về an sinh xã hội, cần có những cải cách trong thiết kế hệ thống và tổ chức thực hiện chính sách BHXH, thực sự là một trụ cột chính của chính sách an sinh xã hội; góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo mọi người lao động đều được tiếp cận và thụ hưởng quyền an sinh xã hội, chia sẻ thành quả phát triển kinh tế - xã hội; tuân thủ nguyên tắc công bằng, bền vững tài chính và chia sẻ rủi ro của hệ thống BHXH là vấn đề cấp thiết trước mắt cũng như lâu dài.
II. BỐI CẢNH CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH BHXH
-  Cải cách chính sách BHXH diễn ra trong bối cảnh cả nước đang tích cực triển khai thực hiện các chủ trương lớn về phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng như:
           + Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện 3 đột phá chiến lược; nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch lao động; Nâng cao chất lượng an sinh, chủ động đối phó với các vấn đề xã hội do già hóa dân số; Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo định hướng phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế; Chủ trương tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng đến năm 2021 giảm tối thiểu 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2015; đến năm 2025 tiếp tục giảm tối thiểu bình quân cả nước 10% đơn vị sự nghiệp công lập và 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2021; Chủ trương về công tác dân số trong tình hình mới theo hướng phát huy tối đa lợi thế cơ cấu dân số vàng, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước nhanh, bền vững và thích ứng với già hóa dân số; xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động; tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động di cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản; phát triển thị trường, đa dạng hóa các gói bảo hiểm, bao gồm bảo hiểm nhà nước, bảo hiểm thương mại với nhiều gói dịch vụ khác nhau để các nhóm dân số đặc thù đều bình đẳng trong tiếp cận, tham gia và thụ hưởng các dịch vụ phúc lợi, an sinh xã hội;
-  Việt Nam đang ở trong giai đoạn dân số vàng nhưng cũng đã bước sang giai đoạn già hóa dân số với tốc độ diễn ra khá nhanh và được coi là nhanh nhất nếu so với các nước. Theo ước tính, năm 2017 số người cao tuổi (60 tuổi trở lên) chiếm 11% tổng dân số; con số này sẽ đạt 17% vào năm 2020 (chỉ sau khoảng hơn 10 năm); đạt 25% vào năm 2050 (khi đó cứ 4 người dân có 1 người từ 60 tuổi trở lên).
Bên cạnh đó, thời gian chuẩn bị cho già hóa của Việt Nam rất ngắn. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới: Thời gian chuẩn bị khi có 7% dân số là người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên sang 14% dân số là người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên của Pháp là 115 năm; của Mỹ là 69 năm; của Trung Quốc là 25 năm; Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Indonexia đều là khoảng 20 năm; riêng Việt Nam chỉ là khoảng 15 năm.
Già hóa dân số tác động trực tiếp đến thị trường lao động, cả về quy mô, cơ cấu, loại hình việc làm và sự bền vững của các hệ thống hưu trí. Tuổi thọ gia tăng đã đặt hệ thống chính sách BHXH trước những yêu cầu cần phải cải cách mà trọng tâm là tính đến quan hệ giữa thời gian tham gia và thời gian thụ hưởng.
-  Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang là xu thế lớn trên toàn cầu, với động lực là sự phát triển về khoa học - công nghệ. Trong quá trình hội nhập sâu rộng với thế giới, Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều nhưng cũng chịu tác động sâu sắc khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thành hiện thực. Thị trường lao động sẽ gặp những thách thức lớn về chất lượng, cung, cầu và cơ cấu lao động, làm thay đổi lớn về quan hệ lao động. Xu hướng tự tạo việc làm và chuyển đổi quan hệ lao động sang quan hệ kinh tế không có hợp đồng lao động (Uber, Grab, các kỹ sư tin học lập trình...) sẽ gia tăng. Đây là một thách thức lớn đối với BHXH trong cách thức tiếp cận và quản lý đối tượng tham gia và thụ hưởng, trong thực hiện mở rộng diện bao phủ và trong cưỡng chế thi hành pháp luật BHXH. Cùng với đó là quá trình dịch chuyển lao động quốc tế, gia tăng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và số người nước ngoài vào Vỉệt Nam làm việc, đòi hỏi sự hoà nhập về chính sách xã hội, đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn chung về an sinh xã hội.
-  Quy mô của khu vực phi chính thức ở Việt Nam còn lớn với đặc điểm là việc làm bấp bênh, thu nhập thấp và không thường xuyên, thời gian làm việc kéo dài, điều kiện làm việc không đảm bảo, thường không có hợp đồng lao động, không có BHXH, không tham gia công đoàn, không có liên hệ nhiều với các khu vực khác của nền kinh tế và do đó thường không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật lao động và bảo hiểm xã hội.
Quá trình tái cấu trúc nền kinh tế (chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu) và tăng cường hội nhập đòi hỏi lực lượng lao động phải có chất lượng cao hơn; những lao động không đáp ứng yêu cầu về trình độ, kỹ năng có nguy cơ bị mất việc làm ở khu vực chính thức và phải tìm việc làm ở khu vực phi chính thức.
Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa và hội nhập làm gia tăng các luồng di cư nội địa của lao động nông nghiệp, lao động chưa qua đào tạo vào các khu đô thị, các thành phố lớn, nếu không có những giải pháp và các chính sách an sinh xã hội, đặc biệt bảo hiểm xã hội kịp thời, sẽ gây ra những hệ lụy về kinh tế, xã hội trước mắt cũng như lâu dài.
-  Thực hiện cải cách chính sách tiền lương đối với khu vực hành chính và sự nghiệp công dự kiến thay đổi theo hướng thực hiện trả lương theo vị trí việc làm và bằng số tiền cụ thể như đối với khu vực sản xuất kinh doanh, không còn mức lương cơ sở như hiện nay. Trong khi đó, chính sách bảo hiểm xã hội hiện nay có nhiều nội dung gắn với mức lương cơ sở (căn cứ tính mức đóng, căn cứ tính mức hưởng một số loại trợ cấp) sẽ cần phải điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh tiền lương mới. Ngoài ra, kinh tế trong nước còn khó khăn, nguồn lực ngân sách nhà nước hạn hẹp; thu nhập của nhiều người dân còn thấp và chưa ổn định.
III. TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Ưu điểm
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và người lao động; sự hỗ trợ, hợp tác hiệu quả của các quốc gia, tổ chức quốc tế, hệ thống chính sách, pháp luật về BHXH đã không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần quan trọng vào nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền vững đất nước trong quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế. Cụ thể là:
Đã hình thành hệ thống chính sách BHXH khá đồng bộ, bao quát hầu hết các chế độ BHXH theo thông lệ quốc té: Gồm cả loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; đối với cả người có quan hệ lao động và người không có quan hệ lao động; cho cả khu vực kinh tế chính thức và phi chính thức.
Hệ thống chính sách BHXH, các quan hệ BHXH được thiết kế, điều chỉnh và vận hành ngày càng phù hợp hơn.
Với vai trò chủ đạo của Nhà nước, sự tham gia của người lao động và người sử dụng lao động, Quỹ BHXH đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa những người lao động cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH. Tổng số tiền chi cho các chế độ hưu trí, tử tuất, mất sức lao động và trợ cấp hàng tháng khác năm 2017 từ Quỹ BHXH là 132.140 tỷ đồng, tăng hơn 9 lần so với thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2007, là năm đầu tiên thực hiện Luật BHXH. Tổng số chi hưu trí, tử tuất năm 2017 từ nguồn ngân sách nhà nước là 44.875 tỷ đồng, chỉ còn 25,35% so với tỷ lệ 56,2% tại thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2007.
Diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật và quy mô tham gia BHXH trên thực tế ngày càng được mở rộng. Tính đến năm 2017, tổng số người tham gia BHXH là 13,9 triệu người (trong đó: BHXH bắt buộc là 13,6 triệu người, BHXH tự nguyện là 0,3 triệu người), tăng hơn 2,3 lần so với thời điểm Luật BHXH số 71/2006/QH11 có hiệu lực (ngày 01 tháng 01 năm 2007); số người tham gia BHTN là 11,7 triệu người. Đến nay, đã và đang thực hiện chế độ, chính sách cho trên 3 triệu người hưởng chế độ hưu trí, BHXH hàng tháng. Trong năm 2017, có 9,1 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe; 0,7 triệu lượt người hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp; trên 56 nghìn người hưởng chế độ tai nạn, bệnh nghề nghiệp hàng tháng.
Mô hình tổ chức hệ thống BHXH với việc tách cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan tổ chức thực hiện chính sách về cơ bản là phù hợp với thông lệ quốc tế, đã phát huy được vai trò và tính hiệu quả trong từng khâu thiết kế, xây dụng, hoạch định đến tổ chức thực hiện chính sách, thu, chi và quản lý Quỹ BHXH. Năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH được tăng cường. Hệ thống pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật về BHXH thường xuyên được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật BHXH được chú trọng hơn; công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế về BHXH được đẩy mạnh.
2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu quan trọng nêu trên, việc tổ chức thực hiện chủ trương đổi mới, nâng cao hiệu quả chính sách BHXH cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém như: Diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật cũng như quy mô tham gia BHXH trên thực tế còn thấp, chưa hướng đến bao phủ toàn dân. Hệ thống BHXH về cơ bản còn thiết kế đơn tầng, sự kết nối giữa chính sách BHXH với các chính sách xã hội khác chưa đồng bộ, chặt chẽ. BHXH bắt buộc còn bỏ sót một số nhóm đối tượng có nhu cầu và có khả năng tham gia. Trên thực tế, năm 2017 vẫn còn trên 70% chưa tham gia. Mục tiêu đến năm 2020 có 50% lực lượng lao động tham gia BHXH theo Nghị quyết số 15-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 Khóa XI và Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị không đạt được. Các nguyên tắc công bằng, đóng - hưởng, chia sẻ và bảo đảm bền vững tài chính chưa được quán triệt đầy đủ, quỹ hưu trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong dài hạn, chính sách BHTN nặng về giải quyết hậu quả khi người lao động thất nghiệp mà chưa chú ý thỏa đáng đến phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp.
Còn có sự không công bằng trong công thức tính lương hưu giữa nam và nữ, giữa lao động khu vực Nhà nước và khu vực ngoài Nhà nước, việc thể chế hóa nguyên tắc này còn chậm (Luật BHXH năm 2014 quy định người lao động trong khu vực Nhà nước khi nghỉ hưu, tính bình quân toàn bộ quá trình đóng BHXH như người lao động khu vực ngoài Nhà nước. Tuy nhiên, quy định này chỉ áp dụng đối với những người bắt đầu tham gia BHXH từ năm 2025. Như vậy, người lao động trong khu vực Nhà nước sớm nhất tính bình quân toàn bộ quá trình đóng BHXH là người nghỉ hưu từ năm 2045), tổ chức thực hiện còn vướng mắc (Điều 60, khoản 2 Điều 56 và khoản 2 Điều 74 của Luật BHXH năm 2014).
Thiết kế CSBH hưu trí nhiều điểm chưa phù hợp:
(i) Quy định thời gian tham gia BHXH để được hưởng lương hưu quá dài (20 năm) trong khi điều kiện hưởng BHXH một lần khá dễ dàng (Theo quy định hiện hành, NLĐ sau một năm nghỉ việc, nếu có nhu cầu thì được nhận BHXH một lần), mức hưởng BHXH một lần cao (Mức hưởng BHXH một lần ở Việt Nam tính trên cả phần đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, trong khi kinh nghiệm của các nước khi cho nhận BHXH một lần chỉ được nhận phân đóng góp của người lao động mà không được nhận phần đóng góp của người sử dụng lao động);
(ii) Công thức tính lương hưu thiết kế chưa hợp lý, nặng về nguyên tắc đóng hưởng, chưa chú ý thỏa đáng nguyên tắc chia sẻ để thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa những người hưởng lương hưu (Cách tính lương hưu ở Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào tiền lương trong quá khứ của cá nhân người lao động dẫn đến người đi làm có lương cao thì khi nghỉ hưu nhận được lương hưu cao và ngược lại. Tính đến cuối năm 2017, người có lương hưu cao nhất ờ nước ta là hơn 100 triệu đồng/tháng; người có lương hưu thấp nhất là 1,3 triệu đồng/tháng. Lương hưu tại một số nước, chẳng hạn như Hàn Quốc và Trung Quốc được tính dựa trên hai yếu tố là lương của bản thân người lao động và lương của những người cùng thế hệ. Điều này dẫn đến người có tiền lương khi đi làm thấp, khi nghỉ hưu vẫn được chia sẻ để có một mức lương hưu khấm khá hơn);
(iii) số người hưởng chế độ hưu trí, tử tuất tăng nhanh, số người mới tham gia tăng chậm (Năm 1996, có 217 người đang đóng BHXH thì chỉ có 1 người đang hưởng chế độ hưu trí; năm 2006 tỷ lệ này là 12,6/1 và năm 2016 là 8,5/1), số người hưởng BHXH một lần cao (Trong giai đoạn 2012 -2017, mỗi năm bình quân có 628 nghìn người hưởng BHXH một lần dẫn đến số người tham gia BHXH tăng thêm chi là 594 nghìn người; tức là cứ có 2 người mới tham gia vào BHXH thì có 1 người rời khỏi hệ thống); mức hưởng lương hưu cao và thời gian hưởng quá dài trong mối tương quan với mức đóng và thời gian đóng. Tuổi thọ bình quân tăng nhanh nhưng tuổi nghỉ hưu được quy định từ năm 1960, đến nay đã gần 60 năm vẫn không thay đổi tạo áp lực cho khả năng cân đối của Quỹ. BHTN chưa thực sự trở thành công cụ quản trị thị trường lao động. Chính sách BHTN chú trọng các giải pháp giải quyết hậu quả thông qua hỗ trợ người lao động nhận TCTN, đào tạo đáp ứng yêu cầu của công việc mới, giới thiệu việc làm mà chưa chú ý thỏa đáng đến các giải pháp phòng ngừa như hỗ trợ doanh nghiệp duy trì việc làm, tránh sa thải lao động, thu hút lao động thất nghiệp dài hạn khó tìm việc làm... như thông lệ các nước (Chính sách BHTN của các nước đều thiết kế các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp để duy trì việc làm, tránh sa thải lao động, thu nhận lao động thất nghiệp dài ngày khó tìm việc làm, hỗ trợ doanh nghiệp các dự án tuyển dụng lao động mới ở khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao... để giảm thất nghiệp; chính sách hỗ trợ người lao động thất nghiệp nhận trợ cấp thất nghiệp, học nghề, chuyển đổi việc làm. Kết hợp cả phòng ngừa, giảm thiểu và giải quyết hậu quả thất nghiệp là mục tiêu chung trong chính sách BHTN theo thông lệ của các nước. Thiếu sự tham gia của doanh nghiệp thì không thể giải quyết bài toán thất nghiệp).
-     Chưa thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập với tiền lương của người đang làm việc (theo Kết luận số 63-KL/TW ngày 27 tháng 5 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI và Luật Bảo hiểm xã hội). Việc điều chỉnh tiền lương hưu thời gian qua thường được tiến hành đồng thời với điều chỉnh tiền lương khu vực hành chính nhà nước, mức tăng thường bằng mức tăng của tiền lương khu vực hành chính nhà nước, làm tăng chi cả từ ngân sách nhà nước (Theo quy định của Luật BHXH thì NSNN bảo đảm kinh phí chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH đối với những người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH trước ngày 01 tháng 01 nãm 1995. Tổng kinh phí chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH từ ngân sách nhà nước năm 2017 là gần 45 nghìn tỷ đồng, trong đó chi cho điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng khoảng 1,5 nghìn tỷ đồng) và Quỹ BHXH, tạo ra những bất hợp lý mới như người có mức lương hưu cao được tăng quá nhiều, người có mức lương hưu thấp được tăng quá ít dẫn đến gia tăng khoảng cách tuyệt đối về mức lương hưu giữa những người đang hưởng càng lớn (Tính đến cuối năm 2017, có khoảng 2,38 triệu người đang hưởng lương hưu, trong đó có hơn 210 nghìn người (chiếm 9%) có lương hưu dưới 2,5 triệu đồng/tháng; có gần 350 nghìn người (chiếm 15%) có lương hưu trên 6 triệu đồng/tháng).
-     Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước còn hạn chế. Thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của cấp ủy, chính quyền các cấp. Chưa thực hiện giao chỉ tiêu phát triển đối tượng BHXH cho các địa phương; sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan Kế hoạch - Đầu tư, Tài chính (Thuế), Lao động - Thương binh và Xã hội với cơ quan BHXH còn chưa chặt chẽ.
Tình trạng vi phạm pháp luật, trốn đóng, nợ đóng BHXH, nhất là khu vực doanh nghiệp vẫn còn khá phổ biến (Ước tính cả nước đến cuối năm 2017 đang có hơn 600.000 doanh nghiệp hoạt động nhưng chỉ có 228.552 doanh nghiệp (chỉ bằng 38% số doanh nghiệp đang hoạt động) đóng BHXH), chậm được khắc phục.
Nợ đóng BHXH còn lớn (Tổng số nợ BHXH có tính lãi tính đến ngày 31 tháng 12 nãm 2017 là 5.973 tỷ đồng, trong đó, nợ BHXH bắt buộc là 5.737 tỷ đồng, nợ BHTN là 236 tỷ đồng).
Xuất hiện tình trạng trục lợi từ Quỹ BHXH; doanh nghiệp và người lao động thỏa thuận không đóng hoặc giảm mức đóng vào Quỹ BHXH. Các chế tài xử lý vi phạm pháp luật BHXH còn chưa đủ mạnh và thực thi chưa nghiêm. Việc giao công đoàn khởi kiện doanh nghiệp nợ BHXH hiệu quả không cao và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế (Các nước thường xử phạt nợ đóng, trốn đóng BHXH rất nặng; không giao Công đoàn khởi kiện vì một số trường hợp người lao động chưa phải là đoàn viên công đoàn nên không thể ủy quyền).
-    Tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHTN còn nhiều hạn chế. Cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và nhân sự của bộ máy thực hiện BHTN còn bất hợp lý, phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, chưa phù hợp với nguyên lý bảo hiểm và thông lệ quốc tế nhưng chậm được sửa đổi, chưa phát huy được các chức năng tích cực của chính sách. BHTN chưa thực sự hỗ trợ được người lao động và doanh nghiệp rút ngắn thời gian tìm việc, thời gian tuyển người, chưa hỗ trợ được mục tiêu duy trì và mở rộng diện bao phủ BHXH, chưa bảo vệ hiệu quả việc làm cho lao động trong nước.
Nhận thức của một bộ phận người lao động và người sử dụng lao động về vai trò, tác dụng của BHXH chưa đầy đủ. Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật chưa có những đổi mới mạnh mẽ để mang lại hiệu quả tốt hơn về phát triển đối tượng, tạo niềm tin vững chắc để thu hút người lao động tham gia hệ thống BHXH.
3. Nguyên nhân
Những hạn chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:(i) Chính sách BHXH của nước ta mới đựợc hình thành và phát triển cùng với quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi tư duy, lý luận - nhận thức về BHXH cần quá trình từng bước hoàn chỉnh; năng lực thiết kế hệ thống còn hạn chế. Việc hình thành, hoàn thiện chính sách BHXH đòi hỏi thời gian dài trong khi chúng ta mới thực hiện được hơn 20 năm. Vì vậy, việc xây dựng chính sách, pháp luật, thiết kế bộ máy tổ chức thực hiện BHXH còn lúng túng, thiếu nhất quán, chưa đồng bộ. (ii) Đặc trưng cơ cấu lao động ở nước ta là phần lớn làm việc ở khu vực không có quan hệ lao động. Thu nhập của số đông người dân còn thấp và không ổn định, áp lực chi tiêu trước mắt lớn. Mạng lưới an sinh xã hội phi chính thức dựa trên mô hình gia đình truyền thống còn phổ biến. Do đó, không ít người dân chưa quan tâm tham gia BHXH. (iii) Năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về BHXH nhiều mặt còn hạn chế. Nhận thức còn chưa đầy đủ, sâu sắc, chưa coi công tác này là một trụ cột trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Khả năng phân tích, dự báo còn bất cập. Chưa làm tốt công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn và kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm, (iv) Công tác thông tin, truyền thông chưa được chú trọng. Nhận thức về BHXH trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của các chủ thể tham gia BHXH còn nhiều hạn chế, nhất là ý thức về quyền lợi, trách nhiệm đóng góp BHXH của người sử dụng lao động và người lao động.
IV. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, MỤC TIÊU CỦA NGHỊ QUYẾT VÀ NỘI DUNG CẢI CÁCH CSBHXH
1. Quan điểm
(1)             BHXH là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tién bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước.
-       Phát triển hệ thống CSBHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế; huy động các nguồn lực xã hội theo truyền thống tương thân tương ái của dân tộc; hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững.
(2)             Cải cách CSBHXH vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài; kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển và phải đặt trong mối tương quan với đổi mới, phát triển các chính sách xã hội khác, nhất là chế độ tiền lương, thu nhập, trợ giúp xã hội để mọi công dân đều được bảo đảm an sinh xã hội.
(3)             Phát triển hệ thống tổ chức thực hiện CSBHXH bảo đảm tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại, nâng cao tính hấp dẫn, củng cố niềm tin và sự hài lòng của người dân cũng như các chủ thể tham gia bảo hiểm xã hội.
(4)             Thực hiện tốt CSBHXH là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân.
2. Mục tiêu
a) Mục tiêu tổng quát:
Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội để bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển hệ thống thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, tin cậy và minh bạch.
b) Mục tiêu cụ thể
-  Giai đoạn đến năm 2021, phấn đấu có khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH (trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 1% lực lượng lao động trong độ tuổi); đến năm 2025 có khoảng 45% (trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXHTN chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ tuổi) và đến 2030 có khoảng 60% (trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXHTN khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi).
-  Giai đoạn đến năm 2021, phấn đấu có khoảng 45% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hàng tháng và trợ cấp xã hội (lương hưu xã hội); đến năm 2025 có khoảng 55% và đến 2030 có khoảng 60%.
- Giai đoạn đến năm 2021, tỷ lệ giao dịch điện tử đạt 100%. Thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Phấn đấu giảm số giờ giao dịch giữa cơ quan BHXH với doanh nghiệp bằng mức ASEAN 4.
-  Giai đoạn đến năm 2021, phấn đấu chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia BHXH đạt mức 80%; đén năm2025 đạt mức 85% và đến 2030đạt mức 90%.
3. Nội dung cải cách
Qua tổng kết lý luận và thực tiễn phát triển bảo hiểm xã hội ở nước ta từ năm 1995 đến nay; kết quả nghiên cứu khảo sát sâu rộng ở trong nước và ngoài nước với sự tham gia góp ý của nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức, chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế đã làm rõ những nội dung cơ bản về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội của nước ta trong thời gian tới. Cụ thể là:
Thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân; bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ.
(1)   Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng
-      Trợ cấp hưu trí xã hội: Ngân sách nhà nước cung cấp một khoản trợ cấp cho người cao tuổi không có lương hưu, hoặc bảo hiểm xã hội hằng tháng. Có chính sách huy động các nguồn lực xã hội đóng thêm để các đối tượng này có mức hưởng cao hơn; điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội phù hợp với khả năng của ngân sách.
-    Bảo hiểm xã hội cơ bản, bao gồm BHXH bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện: Bảo hiểm xã hội bắt buộc (với các chế độ hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, ốm đau, thai sản, thất nghiệp) dựa trên đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Bảo hiểm xã hội tự nguyện (với các chế độ hưu trí, tử tuât hiện nay, từng bước mở rộng sang các chế độ khác) dựa trên đóng góp của người lao động không có quan hệ lao động; có sự hỗ trợ phù hợp từ ngân sách nhà nước cho nông dân, người nghèo, người có thu nhập thấp, lao động khu vực phi chính thức để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội; nâng cao ý thức, trách nhiệm của người lao động đối với việc tự bảo đảm an sinh cho bản thân. Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội theo lộ trình điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu phù hợp từng thời kỳ.
-    Bảo hiểm hưu trí bổ sung là chế độ hưu trí tự nguyện theo nguyên tắc thị trường, tạo điều kiện cho người sử dụng lao động và người lao động có thêm sự lựa chọn tham gia đóng góp để được hưởng mức lương hưu cao hơn.
(2)   Sửa đỗi quy định về điều kiện thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu để hưởng chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt đồng thời với việc điều chỉnh cách tính lương hưu theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sang các nhóm đối tượng khác,
Sửa đổi điều kiện hưởng ché độ hưu trí theo hướng giảm dần số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống 15 năm, hướng tới còn 10 năm với mức hưởng được tính toán phù hợp nhằm tạo điều kiện cho người lao động cao tuổi, có số năm tham gia bảo hiểm xã hội thấp được tiếp cận và thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, hoàn thiện cách tính lương hưu, bảo đảm công bằng giữa nam và nữ, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa người có mức lương cao với người có mức lương thấp để thu hẹp khoảng cách về thu nhập trong các đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Rà soát, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đổi với các nhóm chủ hộ kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý, điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao động làm việc theo chế độ linh hoạt.
(3)   Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội cũng như tính linh hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ
Nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện CSBH thất nghiệp, chú trọng không chỉ các giải pháp xử lý hậu quả thông qua việc chi trả trợ cấp thất nghiệp, đào tạo đáp ứng yêu cầu của công việc mới, giới thiệu việc làm mà cần chú ý thoả đáng đến các giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp thông qua việc hỗ trợ doanh nghiệp duy trì sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm cho người lao động. Nghiên cứu thiết kế các gói bảo hiểm xã hội tự nguyện ngắn hạn linh hoạt để người lao động có nhiều sự lựa chọn tham gia và thụ hưởng. Mở rộng các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện, tạo điều kiện chuyển đổi thuận lợi giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và BHXH bắt buộc, hướng tới chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với toàn bộ người lao động có việc làm, có thu nhập và tiền lương khi có đủ điều kiện cần thiết.
(4)   Cải cách trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách nhằm củng cố niềm tin, tăng mức độ hài lòng của người tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội
Xây dựng CSBHXH bảo đảm sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa các nhóm đối tượng tham gia; tăng cường sự chia sẻ giữa các nhóm đối tượng thụ hưởng nhằm khắc phục bất hợp lý, chênh lệch quá lớn về mức hưởng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hoá các quy trình, thủ tục đăng ký, đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ bảo hiểm xã hội theo hướng thân thiện, công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
(5)   Đẩy nhanh quá trình gia tăng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội trong khu vực phi chính thức
Đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số 10- NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu thiết kế các gói bảo hiểm xã hội ngắn hạn với mức đóng, mức hưởng, phương thức giao dịch phù hợp với người lao động trong khu vực phi chính thức.
(6)   Sửa đổi, khắc phục các bất hợp lý về chế độ bảo hiểm hưu trí hiện nay theo hướng linh hoạt hơn về điều kiện hưởng chế độ hưu trí, chặt chẽ hơn trong quy định hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần, tăng tuổi nghỉ hưu bình quân thực tế của người lao động
Có quy định phù hợp để giảm tình trạng hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo hướng tăng quyền lợi nếu bảo lưu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ hưu trí, giảm quyền lợi nếu hưởng bảo hiểm xã hội một lần. Sửa đổi các quy định để khuyến khích người lao động tham gia bảo hiểm xã hội thời gian dài hơn, từng bước tăng tuổi nghỉ hưu bình quân, tăng tỉ lệ giảm trừ tiền lương hưu đối với người lao động muốn nhận chế độ hưu trí sớm.
(7)   Thực hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình
Điều chỉnh tuổi nghỉ hưu cần có tầm nhìn dài hạn và có lộ trình phù hợp với tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thất nghiệp; không gây tác động tiêu cực đến thị trường lao động; bảo đảm số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số; bình đẳng giới; cân đối Quỹ BHXH trong dài hạn; xu hướng già hoá dân số; tính chất, loại hình lao động và giữa các ngành nghề, lĩnh vực.
Từ năm 2021, thực hiện điều chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu tăng tuổi nghỉ hưu chung, thu hẹp dần khoảng cách về giới trong quy định tuổi nghỉ hưu; đối với những ngành nghề đặc biệt, người lao động được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu chung.
(8)   Sửa đỗi các quy định về mức đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để đạt mục tiêu mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội
Sửa đổi quy định về căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của khu vực doanh nghiệp ít nhất bằng khoảng 70% tổng tiền lương và các khoản thu nhập khác có tính chất lương của người lao động để khắc phục tình trạng trốn đóng, đóng không đủ bảo hiểm xã hội, ảnh hưởng đến khả năng cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội và quyền lợi của người lao động.
Nghiên cứu điều chỉnh tỉ lệ đóng vào Quỹ bảo hiểm xã hội theo hướng hài hoà quyền lợi giữa người sử dụng lao động và người lao động.
(9)   Điều chỉnh tỉ lệ tích lũy để đạt tỉ lệ hưởng lương hưu tối đa phù hợp với thông lệ quốc tế
Sửa đổi cách tính lương hưu theo hướng giảm tỉ lệ tích luỹ, bảo đảm khả năng cân đối quỹ hưu trí trong dài hạn, phù hợp với thông lệ quốc tế. Có lộ trình điều chỉnh kéo dài thời gian tham gia bảo hiểm xã hội thực tế, bảo vệ quyền lợi của người hưởng chế độ hưu trí theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng và chia sẻ phù hợp.
(10) Đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền vững, hiệu quả
Tăng cường công tác đánh giá, dự báo tài chính, hiệu quả đầu tư các quỹ bảo hiểm xã hội; đa dạng hoá danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền vững và hiệu quả; ưu tiên đầu tư vào trái phiếu chính phủ, nhất là trái phiếu chính phủ dài hạn; nghiên cứu từng bước mở rộng sang các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao, từng bước và có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của Quỹ thông qua uỷ thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế bảo đảm an toàn, bền vững.
(11)   Thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hưởng chia sẻ
Thực hiện điều chỉnh trợ cấp hưu trí xã hội theo khả năng cân đối của ngân sách nhà nước; lương hưu cơ bản được điều chỉnh chủ yếu dựa trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng, khả năng của Quỹ bảo hiểm xã hội và ngân sách nhà nước; quan tâm điều chỉnh thoả đáng đối với nhóm đối tượng có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước năm 1995 nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch lương hưu giữa người nghỉ hưu ở các thời kỳ.
Trải qua các giai đoạn phát triển, chính sách BHXH đã đạt được những kết quả tích cực, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề lớn cần phải cải cách, điều chỉnh nhiều nội dung để khắc phục những hạn chế, yếu kém, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với xu hướng phát triển và bối cảnh mới. Căn cứ vào vào các nội dung cơ bản về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội của nước ta và để đạt được các mục tiêu nêu trên, trong những năm tới cần thực thiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
(1)             Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chính sách bảo hiểm xã hội
Cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền; đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội để cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ sự cần thiết, lợi ích, vai trò, ý nghĩa và những nội dung cơ bản của cải cách chính sách bảo hiểm xã hội đối với bảo đảm an sinh xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo sự đồng thuận, thống nhất trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.
(2)             Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm, BHXH
Thể chế hoá các chủ trương và hoàn thiện pháp luật, chính sách về bảo hiểm xã hội phải kết hợp với hoàn thiện pháp luật, chính sách về chế độ tiền lương, việc làm, chính sách người có công với cách mạng và các chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực có liên quan khác.
Sửa đổi, bổ sung pháp luật về bảo hiểm xã hội theo hướng tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội toàn dân; thiết kế hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng; hoàn thiện các quy định về đóng - hưởng bảo hiểm xã hội, bảo đảm các nguyên tắc công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Rà soát, sửa đổi các quy định về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, gắn với việc đẩy mạnh đàm phán, ký kết hiệp định song phương về bảo hiểm xã hội.
Sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách việc làm theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động duy trì việc làm, bảo đảm quyên lợi chính đáng của doanh nghiệp và người lao động, khăc phục tình trạng gian lận, trục lợi bảo hiêm thât nghiệp. Có quy định cụ thê và cơ chê quản lý chặt chẽ việc đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội, bảo đảm việc đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội an toàn, bền vững, hiệu quả.
Hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, nhất là đối với các hành vi trốn đóng, nợ đóng, trục lợi bảo hiểm xã hội theo hướng cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội và cơ quan quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội có thẩm quyền xử phạt các doanh nghiệp trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi bảo hiểm xã hội; đồng thời, các doanh nghiệp và người lao động có quyền khiếu nại, hoặc khởi kiện cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội nếu phát hiện có sai phạm trong thực hiện chính sách BHXH.
(3)      Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH
Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội, nhất là trong việc hoạch định chiến lược phát triển, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội. Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, kịp thời xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh.
Nâng cao tính tuân thủ pháp luật về bảo hiểm xã hội thông qua thực hiện đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế, tư pháp để tăng số người tham gia bảo hiểm xã hội, đi đôi với chú trọng tăng số người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội, đặc biệt là chế độ hưu trí. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là các hành vi trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi tiền bảo hiểm xã hội.
Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để đẩy mạnh việc phân cấp cho các cơ quan BHXH; thực hiện giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH cho các địa phương; phân định rõ quản lý nhà nước với quản trị bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH.
Tăng cường công tác phối hợp, chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu giữa cơ quan quản lý nhà nước vê đâu tư, tài chính, thuê, lao động đê nâng cao hiệu quả quản lý đối tượng tham gia BHXH và thực thi chính sách BHXH. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về BHXH. Xây dựng cơ sở dữ liệu về BHXH, bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng cung ứng dịch vụ của cơ quan BHXH.
(4)      Nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chỉnh sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp
Hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH, bảo hiểm thất nghiệp theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu BCHTW khoá XII Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động của Hội đông quản lý BHXH. Thực hiện chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán và thông tin báo cáo về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên tất cả các lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; hoàn thiện, đẩy mạnh kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm với các hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện chính sách và công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách. Tiếp tục hiện đại hoá quản lý bảo hiểm xã hội, đầu tư phát triển công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Kịp thời ngăn chặn tình trạng gian lận, trục lợi chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
Triển khai có hiệu quả các chính sách bảo hiểm thất nghiệp, phát huy đầy đủ các chức năng của bảo hiểm thất nghiệp, bảo đảm bảo hiểm thất nghiệp thực sự là công cụ quản trị thị trường lao động. Chi phí tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp lấy từ nguồn Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, không lấy từ ngân sách nhà nước. Có cơ chế tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, nhất là trong bối cảnh thị trường lao động biến động nhanh chóng và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang làm biến đổi cấu trúc của thị trường lao động.
(5)   Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội, tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội.
VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN (không giới thiệu, nghiên cứu trong tài liệu)./.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét