Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2018

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 7 KHÓA XII, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018


ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU
NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 7 KHÓA XII
Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực
và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”
                                                           Đại tá Huỳnh Văn Mầm
Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Cục Hậu cần                        
Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đây là Nghị quyết chuyên đề của Trung ương về công tác cán bộ, nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất trong nhiệm kỳ mà Đại hội XII của Đảng đề ra.
Một là, vì sao Ban Chấp hành Trung ương phải ban hành Nghị quyết về công tác cán bộ?
Hai là, thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ hiện nay.
Ba là, quan điểm, mục tiêu của Nghị quyết.
Bốn là, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu và những trọng tâm, nội dung đột phá.
Năm là, một số vấn đề về Kế hoạch thực hiện Nghị quyết.
I. VÌ SAO BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG PHẢI BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT MỚI VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ?
Có 06 lý do chủ yếu sau:
Thứ nhất, cán bộ và công tác cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại của cách mạng và sự phát triển của đất nước.
- Như chúng ta biết, xây dựng đường lối chính trị, hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ là ba vấn đề cốt yếu, quyết định sự thành bại của một đảng cầm quyền. Song, suy đến cùng thì cán bộ có vai trò quyết định, bởi vì: đường lối chính trị của Đảng cũng do cán bộ xây dựng nên; tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị cũng do cán bộ thiết lập ra và khi đã có đường lối chính trị, tổ chức bộ máy thì cán bộ cũng là người lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, đưa chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.
- Từ kinh nghiệm và thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Người còn nói:“Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”.
- Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định: Xây dựng Đảng là nhiệm vụ “then chốt” thì công tác cán bộ là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”.
(Thực tế cho thấy: Trong cùng một điều kiện, hoàn cảnh như nhau, nhưng kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của các địa phương, cơ quan, đơn vị lại khác nhau là do chất lượng đội ngũ cán bộ khác nhau, trước hết là người đứng đầu).
Thứ hai, Sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta đang chuyển sang một giai đoạn phát triển mới với trình độ cao hơn, nhiệm vụ khó khăn hơn và tính chất ngày càng phức tạp hơn. Bên cạnh đó, bốn nguy cơ Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt gay gắt hơn. Đó là:
(1) Yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước: Xây dựng nền dân chủ XHCN và Nhà nước pháp quyền XHCN;  giải quyết hài hòa mối quan hệ Nhà nước - Thị trường - Xã hội; đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng; thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, với nền kinh tế số, kinh tế tri thức và sự biến đổi khí hậu; công cuộc đổi mới đất nước ngày càng đi vào chiều sâu, thực tiễn luôn đặt ra những vấn đề mới, khó và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xử lý, giải quyết một cách khoa học, hiệu quả cả về lý luận và thực tiễn.
Hơn nữa, chúng ta phải giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển trong bối cảnh khu vực và thế giới luôn có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường.
(2) Sự tác động thường xuyên, mạnh mẽ, nhiều chiều từ mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, Internet, mạng xã hội...
(Tình hình đó, đòi hỏi Đảng ta phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới. Mặt khác phải biết thích ứng nhanh và xử lý có hiệu quả những tác động tiêu cực phát sinh).
Thứ ba, qua 20 năm thực hiện Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp đã trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, cho đến nay Chiến lược cán bộ có một số nội dung không còn phù hợp, cần được điều chỉnh, bổ sung và phát triển để đáp ứng với yêu cầu của thời kỳ mới. Đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, khuyết điểm và bất cập, trong đó có những khuyết điểm, yếu kém kéo dài, nhưng chậm được khắc phục, đổi mới như:
(1) Công tác cán bộ đổi mới còn chậm so với đổi mới kinh tế.
(2) Đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh.
(3) Một bộ phận không nhỏ cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
(4) Tình trạng chạy chức, chạy quyền,... còn diễn ra nhưng chậm được khắc phục.
(Những khuyết điểm, yếu kém và bất cập của công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ nêu trên đã và đang làm giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đe dọa đến uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng).
Thứ tư, sau hơn 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta đang đứng trước sự chuyển giao thế hệ lãnh đạo, từ lớp cán bộ được rèn luyện, thử thách trong chiến tranh, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và các nước xã hội chủ nghĩa; sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên trong hòa bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, ở nhiều nước có các thể chế chính trị khác nhau.
(Thực tế này đặt ra yêu cầu cấp bách trong xây dựng đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự trao truyền lý tưởng, niềm tin, khát vọng của lớp thế hệ cha anh đối với lớp con, em kế tục, cũng như khả năng đón nhận, kế thừa và phát triển của thế hệ trẻ, bảo đảm tính tiếp nối liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ và sự phát triển không ngừng của sự nghiệp cách mạng).
Thứ năm, chúng ta luôn luôn phải động viên, khích lệ, lan tỏa những thành tựu đã đạt được sau 30 năm đổi mới nhưng không chủ quan, thỏa mãn, lơ là, mất cảnh giác, nhất là trước sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động đối với Đảng, Nhà nước ta bằng Chiến lược “diễn biến hòa bình” với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn; chúng lợi dụng triệt để những hạn chế, khuyết điểm của Đảng, Nhà nước ta nói chung và về công tác cán bộ nói riêng để xuyên tạc, hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước ta gây hoang mang, hoài nghi, phân tâm nhằm chia rẽ nội bộ, tác động xấu đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ các cấp.
(Vì vậy, phải xây dựng được đội ngũ cán bộ thắng không kiêu, bại không nản; phải biết chủ động tấn công, tích cực phòng ngừa, không được say xưa với thành tựu mà lơ là, mất cảnh giác, nhất là trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Cần phải tỉnh táo, có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường tư tưởng kiên định và hành động quyết liệt, nhưng phải thật sự khôn khéo).
Thứ sáu, phải góp phần cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đối với những điểm mới về công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ và là nhiệm vụ đã được xác định trong Chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương.
Như vậy, trong tình hình, bối cảnh nêu trên và để cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, tạo sự thống nhất, đồng bộ với thực hiện các nghị quyết 4, 5, 6 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, việc ban hành Nghị quyết “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” là rất cần thiết, vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa đáp ứng nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài của công tác xây dựng Đảng trong những năm tới.
II. VỀ THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
Trên cơ sở Tổng kết 20 năm thực hiện Chiến lược cán bộ, Ban Chấp hành Trung ương đã đánh giá đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ như sau:
1. Về đội ngũ cán bộ
- Đội ngũ cán bộ các cấp đã có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn. Số cán bộ có trình độ đại học, sau đại học tăng nhanh.
(Ví dụ, theo thống kê, chỉ riêng từ 2009 đến 2014, số người có trình độ đại học và trên đại học đã tăng gần 2 lần từ 4,4% lên 7,3%).
- Trình độ, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn của đội ngũ cán bộ có nhiều tiến bộ. Số lượng cán bộ được quy hoạch khá dồi dào, cơ bản, bảo đảm sự chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ.
(Qua mỗi kỳ đại hội Đảng, cấp ủy các cấp được đổi mới khoảng trên 40%. Ban Chấp hành Trung ương đổi mới cao hơn: khóa IX đổi mới 42%, khóa X - 54,7%, khóa XI - 47% và khóa XII - 48%).
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng vững vàng, có bản lĩnh chính trị, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
- Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể ở các cấp có phẩm chất, năng lực và uy tín. Cán bộ cấp chiến lược luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập, dân tộc và CNXH; có tư duy đổi mới và tầm nhìn chiến lược, có khả năng hoạch định đường lối, đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện.
(Cán bộ cấp chiến lược là những cán bộ thuộc diện Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, hiện nay dao động khoảng trên 600 đồng chí).
- Hầu hết cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong lực lượng vũ trang được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân.
- Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước trong điều kiện còn nhiều khó khăn.
(Số lượng công trình khoa học được công bố quốc tế của Việt Nam 15 năm qua tăng bình quân 17%/năm; đứng thứ 4 khu vực, sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Một số lĩnh vực nghiên cứu cơ bản: Toán học đứng thứ hai ASEAN; vật lý lý thuyết đứng thứ ba ASEAN; toán tối ưu đứng đầu ASEAN và xếp thứ 19 thế giới).
- Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
(Giai đoạn 2010 - 2017, vốn nhà nước tại các doanh nghiệp trong khối Doanh nghiệp TW đạt trên 1.264.175 tỷ đồng, tăng 87%; lợi nhuận trước thuế đạt 801.419 tỷ đồng, tăng 12,5%/năm; nộp ngân sách chiếm 26,85% tổng thu ngân sách).
          Tuy nhiên, nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh, tình trạng vừa thừa, vừa thiếu xảy ra ở nhiều nơi.

(Số cán bộ, công chức và viên chức tăng gấp đôi trong 10 năm vừa qua (chủ yếu viên chức), làm chi tiêu thường xuyên cũng tăng nhanh tương tự).

- Cơ cấu cán bộ giữa các ngành nghề, lĩnh vực chưa thật hợp lý. Còn thiếu sự liên thông giữa các cấp, các ngành.
(Chưa có sự liên thông giữa cán bộ cấp xã với cán bộ các cấp; giữa khối Đảng, đoàn thể với khối Nhà nước; giữa khu vực doanh nghiệp nhà nước với khu vực hành chính nhà nước; giữa khu vực công và khu vực tư ở mức độ hợp lý với thực tiễn phát triển của đất nước ta...).
- Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra.
(Tỷ lệ cán bộ cấp chiến lược dưới 45 tuổi chiếm 7,18%; tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý dưới 40 tuổi công tác ở ban, ngành Trung ương là 6,22%; ở cấp tỉnh là 6,41%; ở cấp huyện dưới 35 tuổi là 6,5%.
Về cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ: Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra là 25%, trong khi đó ở Trung ương từ cấp vụ trở lên mới có 17,54%; ở cấp tỉnh có 12,28%; ở cấp huyện có 9,98%.
Về cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số: ở Trung ương là 5% và cấp tỉnh là 14,7%. Cán bộ người dân tộc thiểu số diện Trung ương quản lý công tác ở địa phương có xu hướng giảm: nhiệm kỳ 2010-2015 là 33%; nhiệm kỳ 2015-2020 còn 27%).
- Độ tuổi bình quân của cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở một số ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương còn cao.
(Cán bộ diện Trung ương quản lý các ban, bộ, ngành ở Trung ương từ 56 tuổi trở lên chiếm 56,86%; diện ban thường vụ cấp ủy tỉnh quản lý từ 51-55 tuổi chiếm 44,54%, từ 56 tuổi trở lên chiếm 23,22%).
- Còn thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực; tỷ lệ cán bộ nghiên cứu khoa học trên tổng dân số còn thấp.
(Theo cách tính của thế giới, ở nước ta có 6,86 cán bộ nghiên cứu khoa học trên một vạn dân, trong khi đó: ở Hàn Quốc là 69, Singapore 66,6, Nhật Bản 53,9, Hoa Kỳ 42,4, Liên bang Nga 31, Malaysia 20,5, Trung Quốc 11,1 và Thái Lan là 9,7).
- Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, năng suất lao động, hiệu quả làm việc thấp.
(Theo thống kê, năm 2016, năng suất lao động của Việt Nam tính theo thu nhập đầu người bằng 7% của Singapore, 17,6% Malaysia, 36,5% Thái Lan, 42,3% Indonesia, 56,7% Phillipin).
- Nhiều cán bộ thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại khó, ngại khổ.
- Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược thiếu gương mẫu, uy tín thấp; còn quan liêu, xa dân, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; có không ít cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật Đảng và xử lý theo pháp luật.
- Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở, cố ý làm trái để trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng.
(10 năm qua có hàng ngàn cán bộ, đảng viên là doanh nghiệp bị xử lý kỷ luật với các hình thức khác nhau, nhiều trường hợp phải xử lý bằng pháp luật).
2. Về công tác cán bộ
- Công tác cán bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi vào nền nếp. Đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, luật, nghị định và sửa đổi, bổ sung nhiều quy định, quy chế để thực hiện. Các quy trình trong công tác cán bộ đã có nhiều đổi mới, ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch và dân chủ hơn.
  (Từ khi thực hiện Chiến lược cán bộ đến nay, các cơ quan chức năng đã ban hành 142 văn bản, gồm: 07 nghị quyết, một số luật có liên quan, 52 quy định, quy chế, 07 chỉ thị, 18 kết luận, 17 thông báo, 41 hướng dẫn...).
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức mới được quan tâm hơn, từng bước gắn với chức danh quy hoạch và sử dụng cán bộ.
(Trong nhiệm kỳ khoá XI, XII, đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ cao cấp và ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; 06 lớp bồi dưỡng cán bộ dự nguồn cao cấp và bồi dưỡng nghiệp vụ theo chức danh cho Bí thư cấp ủy cấp huyện. Nhiều địa phương tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với địa phương mình).
- Chủ trương luân chuyển kết hợp với bố trí một số chức danh lãnh đạo không là người địa phương có từ khóa IX đạt được kết quả bước đầu.
(Đối với chức danh bí thư cấp tỉnh: Nhiệm kỳ 2001-2006 đạt 25%; nhiệm kỳ 2006-2011 đạt 27%; nhiệm kỳ 2011-2016 đạt 25,4%. Từ đầu nhiệm kỳ khóa XII đến nay, có 15 đồng chí, đạt 23,8%. Đối với bí thư cấp huyện: nhiệm kỳ 2010-2015, có 38,19%; nhiệm kỳ 2015-2020, có 44,92%. Đối với chủ tịch UBND, nhiệm kỳ 2016-2021: cấp tỉnh có 28,6% và cấp huyện có 28%).
- Công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ đã được coi trọng hơn; kỷ cương, kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước được tăng cường. Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm, cả cán bộ đương chức hoặc đã nghỉ hưu và không có “vùng cấm”, không có “ngoại lệ” đã góp phần đấu tranh ngăn chặn tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, làm trong sạch một bước đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Tuy nhiên, một số nội dung trong nghị quyết, kết luận của Trung ương chậm được cụ thể hóa, có nội dung chưa sát thực tế, thiếu tính đồng bộ, liên thông.
(Còn một số nội dung nêu trong Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII và Kết luận 37-KL/TW của BCH Trung ương khóa X chưa được cụ thể hóa để thực hiện. Quy định về phân cấp, đánh giá và kỷ luật cán bộ, đảng viên chưa thống nhất giữa quy định của Đảng và của Nhà nước).
- Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, việc thực hiện một số nội dung còn hình thức. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, nhìn chung chưa phản ánh đúng thực chất.
- Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; chưa bảo đảm phương châm “động” và “mở”, còn dàn trải, khép kín, dựa nhiều vào tuổi.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới về nội dung và phương pháp; chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh. Chủ trương bố trí một số chức danh (9 chức danh) lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương thực hiện chưa đạt yêu cầu.
- Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình còn xảy ra ở một số nơi, trong đó có cả người nhà, người thân của một số cán bộ lãnh đạo gây bức xúc trong dư luận xã hội.
(Một số cán bộ không còn đủ thời gian công tác theo quy định hoặc năng lực hạn chế vẫn được bố trí vào chức vụ cao hơn, nhưng sau đó có một số đồng chí bị kỷ luật).
- Công tác tuyển dụng còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực. Chủ trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hóa, thiếu trọng tâm, trọng điểm hiệu quả thấp; kết quả thu hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu. Chính sách tiền lương, nhà ở, thi đua, khen thưởng chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc.
(Theo báo cáo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội: tiền lương của người lao động còn nhiều hạn chế, bất cập. Chưa có chính sách nhà ở cho cán bộ, công chức, viên chức mà mới chỉ có chính sách nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp).
- Phân cấp quản lý cán bộ chưa theo kịp tình hình (Quy định 67-QĐ/TW về phân cấp quản lý cán bộ của Bộ Chính trị ban hành năm 2007, đến 2017 mới được bổ sung, sửa đổi thành Quy định 105-QĐ/TW).
- Việc chỉ đạo, triển khai một số chủ trương thí điểm chưa thực sự quyết liệt, chậm sơ kết, tổng kết như việc đại hội đảng bộ cơ sở bầu ban thường vụ, bí thư, phó bí thư; việc sắp xếp tổ chức, kiêm nhiệm để tinh giản biên chế...
- Việc kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên, thiếu chủ động, mới chỉ tập trung được kiểm tra, xử lý vi phạm, thiếu giải pháp hiệu quả để phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm; việc kiểm tra theo chuyên đề, chuyên ngành còn hạn chế. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn bị động, chưa theo kịp tình hình, tổ chức bộ máy thiếu ổn định.
(Chưa thực sự đi sâu nắm, giải quyết vấn đề chính trị hiện nay; còn lúng túng về mô hình tổ chức ở Trung ương: lúc là Ban, lúc Tiểu ban; lúc là Vụ, lúc Cục và các địa phương cũng bị tác động bởi mô hình tổ chức thiếu ổn định).
- Tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu còn nhiều đầu mối (Hiện nay, Ban Tổ chức của cấp ủy, cơ quan nội vụ của chính quyền các cấp, Ban Công tác đại biểu của Quốc hội có chức năng tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ. Nếu không phối hợp chặt chẽ, hiệu quả rất dễ xảy ra thiếu thống nhất, phát sinh nhiều thủ tục hành chính không cần thiết).
- Phẩm chất, năng lực và uy tín của một số cán bộ làm công tác cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu. Chậm sơ kết, tổng kết thực tiễn; thiếu nghiên cứu cơ bản và phát triển lý luận về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
(Tóm lại, sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đội ngũ cán bộ đã có sự trưởng thành, lớn mạnh, có đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước).
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có cả nguyên nhân chủ quan, khách quan, nhưng có 6 nguyên nhân chủ quan là:
Thứ nhất: Nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ chưa thật sự đầy đủ, toàn diện. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa được coi trọng đúng mức, nhất là trong tình hình hiện nay.
Thứ hai: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương thiếu quyết liệt, chưa thường xuyên; một số nội dung chậm thể chế hóa, cụ thể hóa; ít kiểm tra, đôn đốc, chế tài xử lý nghiêm sai phạm còn bất cập.
Thứ ba: Một số nội dung trong công tác cán bộ chậm được đổi mới. Chưa có cơ chế hiệu quả để đánh giá đúng cán bộ, tạo động lực và nhất là để bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung; chính sách cán bộ còn một số bất cập, chưa phát huy tốt tiềm năng của cán bộ. Công tác quản lý cán bộ có nơi, có lúc bị buông lỏng; chưa có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người năng lực hạn chế, uy tín thấp.
Thứ tư: Phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm, với tăng cường kiểm tra, giám sát và chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Chưa có biện pháp hiệu quả để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền và những tiêu cực trong công tác cán bộ. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức.
Thứ năm: Chưa phát huy đầy đủ vai trò giám sát của cơ quan dân cử; giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; thiếu cơ chế phù hợp để cán bộ, đảng viên gắn bó mật thiết với nhân dân; chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của các cơ quan truyền thông, báo chí.
Thứ sáu: Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ còn chồng chéo, chậm được đổi mới. Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội ngũ làm công tác cán bộ. Còn coi nhẹ sơ kết, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển lý luận về cán bộ, công tác cán bộ.
III. VỀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ MỤC TIÊU CỦA NGHỊ QUYẾT
1. Dự báo tình hình
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác, hội nhập và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng các mối đe dọa truyền thống, phi truyền thống và biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt. Sự bùng nổ của khoa học - công nghệ, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số, kinh tế tri thức và xu hướng quốc tế hóa nguồn nhân lực vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với nước ta. Công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu; sức mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế của đất nước ngày càng nâng cao, Việt Nam ngày càng có vị thế và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế... Tuy nhiên: Sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức; tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc đến xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ; đồng thời, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín mới đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới.

2. Về quan điểm chỉ đạo

Nghị quyết Trung ương lần này xác định 05 quan điểm sau:
Một là, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành một cách khoa học, thận trọng, thường xuyên, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững.
(Quan điểm này không chỉ xác định vị trí “then chốt” của cán bộ và công tác cán bộ, mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng.
Phải nhận thức rõ, xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ là công việc khó, hệ trọng, phức tạp, nhạy cảm, không thể làm một lần là xong; không chỉ là “công tác nhân sự” trước mỗi kỳ đại hội Đảng hay mỗi kỳ bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, mà phải tiến hành thường xuyên, liên tục, thận trọng, bài bản, nghĩa là không cầu toàn và không nóng vội, làm có bài bản, làm đâu chắc đấy. Phải có thái độ công tâm, khách quan và cách làm khoa học, phù hợp để xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Khẳng định đầu tư cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ phải thỏa đáng phù hợp, hiệu quả vì đó là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững). 
Hai là, thực hiện nghiêm, nhất quán Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.
(Quan điểm này yêu cầu phải khắc phục tình trạng xem nhẹ sự lãnh đạo của Đảng và buông lỏng vai trò quản lý của Nhà nước trong xây dựng, quản lý đội ngũ cán bộ. Phải chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương để khắc phục những hạn chế, yếu kém, đồng thời tạo môi trường, điều kiện cho đổi mới, sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung; ”xây” vẫn là chiến lược cơ bản, lâu dài, ”chống” là thường xuyên, quan trọng. Việc phân cấp, phân quyền là cần thiết để phát huy tính năng động, sáng tạo của cấp dưới, nhưng phải đi đôi với kiểm soát chặt chẽ quyền lực bằng cơ chế và ràng buộc trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó).
Ba là, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và thu hút, trọng dụng nhân tài.
(Quan điểm này yêu cầu: Xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, khắc phục tính chủ quan, duy ý chí; phải lấy thực tiễn làm thước đo và là môi trường để rèn luyện, thử thách cán bộ. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn với các mặt khác của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, phải nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm). 
Thứ tư, quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa xây và chống; giữa đức và tài; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể.
(Căn cứ vào đường lối chính trị để quyết định đường lối cán bộ; đường lối cán bộ phải xuất phát từ đường lối chính trị và phục vụ nhiệm vụ chính trị, nhưng đường lối chính trị cũng do đội ngũ cán bộ xây dựng nên; do vậy, đường lối chính trị và đường lối cán bộ có mối liên hệ khăng khít, mật thiết, hữu cơ với nhau.
Quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết dân tộc là để thu hút người có tâm, có đức, có tài phục vụ đất nước mà không phân biệt họ là đảng viên hay không là đảng viên. Trong bố trí cán bộ, phải lấy tiêu chuẩn là chính, không được vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn; ngược lại, khi xem xét nhân sự cụ thể phải hết sức thận trọng, thấu đáo, hợp tình, hợp lý về mặt cơ cấu cho phù hợp với tình hình thực tế và hoàn cảnh cụ thể. Phải coi trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc. Giữa ”xây” và ”chống” thì ”xây” là chiến lược, cơ bản, lâu dài; ”chống” là thường xuyên, quan trọng. Công tác cán bộ phải hài hòa, hợp lý giữa phổ biến và đặc thù, trong đó tính phổ biến là cho cái chung, cái đa số, đặc thù là cho thiểu số, cá biệt. Kế thừa, ổn định, nhưng phải đổi mới để phát triển).
Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân; phải thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và xây dựng đội ngũ cán bộ.
(Quan điểm này khẳng định xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự lãnh đạo của Đảng; khẳng định vai trò quan trọng của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức CT-XH, báo chí, truyền thông trong việc phát hiện, cổ vũ những nhân tố mới, mô hình mới, người dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung và đấu tranh có hiệu quả với những tiêu cực trong đội ngũ cán bộ. Đồng thời, thể hiện rõ tư tưởng dựa vào dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, khắc phục các biểu hiện quan liêu, xa dân ở một số cấp ủy, tổ chức đảng như hiện nay).
Các quan điểm chỉ đạo nêu trên hợp thành hệ thống quan điểm đồng bộ, toàn diện, thể hiện rõ tinh thần kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển; vừa mang tính nguyên tắc chỉ đạo, vừa định hướng cách tiếp cận, phương pháp khoa học cho việc đổi mới công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ trong những năm tới.

3. Về mục tiêu của Nghị quyết

3.1. Mục tiêu tổng quát:
Nghị quyết đề ra mục tiêu tổng quát là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng) và tầm nhìn đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập Nước), trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
3.2. Mục tiêu cụ thể:
Nghị quyết xác định mục tiêu cụ thể, với 3 mốc thời gian: đến năm 2020, năm 2025 và năm 2030. Việc xác định các mục tiêu cụ thể trong Nghị quyết căn cứ vào kết quả thực hiện các nghị quyết, kết luận trước đây và tình hình thực tế hiện nay. Các mục tiêu đề ra cho từng giai đoạn, phù hợp với từng nhóm đối tượng và có tính khả thi, nhưng đòi hỏi phải có sự nỗ lực phấn đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, của cả hệ thống chính trị, nhất là người đứng đầu mới có thể đạt được. Cụ thể là:
- Đến năm 2020, Nghị quyết đề ra 04 mục tiêu sau:
(1) Thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết thành các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ (Từ trước tới nay, việc thể chế hóa, cụ thể hóa vẫn còn hạn chế).
(2) Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; kiên quyết xóa bỏ tệ chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên;
(3) Đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương;
(4) Hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm và rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
- Đến năm 2025, Nghị quyết đề ra 03 mục tiêu lớn:
(1) Tiếp tục hoàn thiện, chuẩn hóa, đồng bộ các quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ.
(2) Cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện, khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác.
(3) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định.
- Đến năm 2030, Nghị quyết đề ra 02 mục tiêu lớn rất quan trọng và thực hiện được sẽ có sức lan tỏa nhanh:
(1) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng.
(2) Cơ bản xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể là:
+ Đối với cán bộ cấp chiến lược: Thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40 - 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
(Tại sao lại đặt ra mục tiêu làm việc trong môi trường quốc tế? Vì chúng ta đang tích cực, chủ động hội nhập (cả địa phương, Trung ương, các cấp, các ngành); nước ta có vị trí là thành viên có trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế. Đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế hiểu biết rộng; sử dụng được một trong các ngoại ngữ quốc tế: Anh, Pháp, Nga, Trung, Tây Ban Nha, Arab; sử dụng thành thạo máy tính;kiến thức, kỹ năng, chuyên môn phù hợp, hiểu biết về thông lệ và luật pháp quốc tế, có khả năng làm việc độc lập, làm việc nhóm...).
+ Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung ương: Từ 20 - 25% dưới 40 tuổi; từ 50 - 60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
+ Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương: Từ 15 - 20% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh dưới 40 tuổi, từ 25 - 35% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; từ 20 - 25% cán bộ lãnh đạo chủ chốt và ủy viên ban thường vụ cấp ủy cấp huyện dưới 40 tuổi. Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã: 100% có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hóa về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công tác.
+ Đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của quân đội, công an: Tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ Đảng, nhân dân; có số lượng, cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; từ 20 - 30% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
+ Đối với đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia: đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước; những lĩnh vực trọng điểm, có thế mạnh phải vươn lên ngang tầm khu vực và thế giới. Số cán bộ khoa học phải đạt ít nhất 11 người trên 1 vạn dân.
+ Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước: Nâng cao tính Đảng và ý thức tuân thủ pháp luật; sản xuất kinh doanh hiệu quả; từ 70 - 80% có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
+ Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20 - 25%; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%. Ở những địa bàn có đồng bào dân tộc, phải có cán bộ lãnh đạo là người dân tộc phù hợp với cơ cấu dân cư.
IV. VỀ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
Căn cứ vào các quan điểm, mục tiêu nêu trên và tình hình thực tế, Nghị quyết đề ra 08 nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn chủ yếu; đồng thời xác định 02 trọng tâm và 05 đột phá để thực hiện.
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ nhất, nâng cao nhận thức; đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên (với 4 nội dung cơ bản).
(1) Có các hình thức, thời gian phù hợp để quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, nhất là về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
(2) Kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc; mở rộng các hình thức tuyên truyền, nhân rộng những điển hình tiên tiến, những cách làm mới sáng tạo, có hiệu quả.
(3) Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc.
(Nhận thức sâu sắc về truyền thống văn hóa, lịch sử của dân tộc cũng là một nguồn lực).
(4) Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, nhất là cán bộ trẻ được đào tạo ở nước ngoài.
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ hai, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ (với 16 nội dung cơ bản) .
 (1) Các cấp ủy, tổ chức đảng căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ bảo đảm đồng bộ, liên thông, nhất quán trong hệ thống chính trị và phù hợp với thực tế.
(Thực tế hiện nay có nội dung trong một số văn bản của Nhà nước chưa tương thích, đồng bộ với các quy định của Đảng. VD: Như việc phân cấp quản lý, bổ nhiệm và xử lý, kỷ luật một số trường hợp cán bộ thời gian vừa qua và một số quy định khác nữa. Vì vậy, cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa các quy định của Nhà nước phù hợp với các quy định của Đảng).
(2) Đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá cán bộ theo hướng: xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, so sánh với chức danh tương đương và công khai kết quả; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị.
(Đánh giá xuyên suốt là đánh giá cả quá trình phấn đấu, trưởng thành của cán bộ. Đánh giá liên tục là đánh giá theo định kỳ tháng, quý, 6 tháng, năm... căn cứ vào mục tiêu của việc đánh giá và tùy thuộc vào từng nhóm đối tượng sao cho phù hợp.
Đánh giá đa chiều (360 độ) là cấp trên đánh giá cấp dưới; đồng cấp đánh giá; cấp dưới đánh giá cấp trên; bản thân tự đánh giá.
Đánh giá bằng các tiêu chí cụ thể là đánh giá trên các mặt: chính trị tư tưởng; đạo đức, lối sống; ý thức tổ chức kỷ luật; tác phong, lề lối làm việc; kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao theo vị trí việc làm; chiều hướng phát triển của cán bộ.
 Đánh giá bằng “sản phẩm” là lượng hóa kết quả làm việc của cán bộ mà có thể “cân, đong, đo, đếm” được và được cấp có thẩm quyền ghi nhận. Đánh giá phải có sự so sánh với các chức danh tương đương: Vụ trưởng so với vụ trưởng; giám đốc sở so với giám đốc sở; trưởng phòng so với trưởng phòng...
Đánh giá thông qua việc lấy phiếu tín nhiệm và khảo sát nhân sự trước khi bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử. Đánh giá người đứng đầu phải gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị nơi công tác và công khai kết quả đánh giá).
 (3) Thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức, làm cơ sở cho các địa phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu; đồng thời, nghiên cứu phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù và theo vùng, khu vực, theo ngành.
(Việc kiểm định này là để thống nhất chất lượng đầu vào công chức trong toàn hệ thống chính trị. Trên cơ sở kết quả kiểm định đó, các địa phương, cơ quan, đơn vị căn cứ vào tình hình cụ thể để lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu của mình. Như vậy, có sự kết hợp hài hòa, hợp lý giữa tập trung và phân cấp. Để không phát sinh bộ máy và biên chế, Bộ Chính trị đã giao cho Ban Cán sự đảng Bộ Nội vụ chỉ đạo Học viện Hành chính quốc gia và cơ sở đào tạo có năng lực phù hợp của Bộ Nội vụ thực hiện; tiến tới có thể phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù và theo vùng, khu vực, theo ngành ở những nơi có điều kiện).
(4) Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và học tập ngoại ngữ.
(Để thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Chính trị đã giao cho Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng: nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học; kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn; kiểm tra chặt chẽ đầu vào, đầu ra; chú trọng đào tạo phương pháp tư duy, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành, cập nhật tình hình, kiến thức mới... Bộ Chính trị giao cho Ban Cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan liên quan xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ các cấp; chỉ đạo Bộ Giáo dục Đào tạo nghiên cứu, triển khai chương trình học song ngữ trong các cấp học phổ thông).
(5) Gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh và thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý để rèn luyện qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau.
(Cán bộ lãnh đạo các cấp cần có kiến thức cơ bản tương đối toàn diện, có thực tiễn công tác phong phú. Vì rèn luyện bản lĩnh chính trị và nhân sinh quan cách mạng không có trường học nào bằng thực tiễn, nhất là qua các lĩnh vực, địa bàn khó khăn, phức tạp, nhạy cảm, có nhiều thách thức).
(6) Đẩy mạnh thực hiện bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác, nhất là chức danh chủ tịch ủy ban nhân dân, nếu có điều kiện.
(Chủ trương này đã được thực hiện từ khóa IX theo Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị. Nhiệm kỳ này, đã có 16/63 bí thư tỉnh ủy, thành ủy không là người địa phương và 31 tỉnh, thành phố có trên 50% bí thư cấp huyện không là người địa phương. Tuy nhiên, việc thực hiện vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra, vì vậy Nghị quyết lần này tập trung thực hiện chức danh bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện và khuyến khích đối với các chức danh khác. Để thực hiện tốt chủ trương này, đối với diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng, chặt chẽ và có kế hoạch triển khai từng bước cụ thể, chắc chắn, phù hợp, hiệu quả; ở các địa phương, các đồng chí chủ động theo thẩm quyền).
 (7) Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh vực mũi nhọn phục vụ cho phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Chiến lược quốc gia về nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài.
(Việc thu hút nhân tài là để phục vụ cho phát triển đất nước, nên không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài; các cơ quan chức năng sẽ có quy định, quy chế cho phù hợp, khả thi và có hiệu quả. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy chính sách thu hút nhân tài phải có trọng tâm, trọng điểm mới đủ nguồn lực và hiệu quả).
(8) Hoàn thiện các quy định, quy chế để cấp ủy các cấp có cơ cấu hợp lý, tinh giản số lượng và nâng cao chất lượng, không nhất thiết địa phương, cơ quan, đơn vị nào cũng phải có cấp ủy viên.
(Trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng gần đây, Trung ương cho tăng số lượng cấp ủy viên các cấp nhằm tăng tỷ lệ trẻ, nữ và dân tộc, nhưng thực tế chưa đạt được mục tiêu này. Vì vậy, để đồng bộ với thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 về kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, Nghị quyết này đề ra chủ trương nghiên cứu cơ cấu hợp lý số lượng cấp ủy viên các cấp để tăng tính cạnh tranh và nâng cao chất lượng cấp ủy viên và sao cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới).
(9) Thực hiện nghiêm việc lựa chọn, bầu cử có số dư; ứng viên trước khi bổ nhiệm phải trình bày chương trình hành động và cam kết thực hiện. Nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới, trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền quyết định. Nhân sự không trúng cử cấp ủy cấp dưới thì không giới thiệu để bầu cấp ủy cấp trên.
(Hiện nay, chúng ta đang tổng kết Chỉ thị 36 của Bộ Chính trị để chuẩn bị ban hành Chỉ thị mới và nghiên cứu ban hành phương hướng công tác nhân sự đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng sao cho phù hợp với tình hình thực tế ở Trung ương, địa phương và phù hợp với quan điểm xử lý hài hòa, hợp lý giữa tính phổ biến và tính đặc thù).
(10) Để bảo đảm thực hiện chỉ tiêu cơ cấu đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, Nghị quyết đề ra bốn cơ chế để thực hiện là:
Một, cấp ủy và người đứng đầu các cấp phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí, tạo điều kiện, cơ hội phát triển cho cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số;
Hai, xây dựng chỉ tiêu cơ cấu phù hợp.
Ba, nếu chưa bảo đảm chỉ tiêu cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau.
Bốn, cấp ủy và người đứng đầu chịu trách nhiệm chủ yếu về thực hiện chỉ tiêu này, tức là nếu không hoàn thành được chỉ tiêu này thì phải có hình thức xử lý.
(Nếu các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị thực hiện nghiêm, đồng bộ 04 cơ chế này thì sẽ đạt được mục tiêu về tỷ lệ cán bộ trẻ, nữ, người dân tộc thiểu số. Vừa qua, tuy chưa có các cơ chế này, nhưng một số cấp ủy, tổ chức đảng cũng đã thực hiện tốt mục tiêu đề ra).
(11) Quy định trách nhiệm của lãnh đạo và cấp ủy viên các cấp trong việc tiến cử người có đức, có tài; người đứng đầu có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, tiến cử người thay thế mình. Có cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ.
(Quy định này yêu cầu phải có cơ chế để phát hiện những cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ. Chủ trương xây dựng cơ chế bố trí cán bộ vào các vị trí lãnh đạo vượt cấp là nét mới và cũng phù hợp với chủ trương thí điểm thi tuyển lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng hiện đang quy định vượt 1 cấp).
 (12) Xây dựng quy định để việc nhận trách nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở thành nếp văn hóa ứng xử của cán bộ; hoàn thiện các quy định về cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm để việc “có lên, có xuống”, “có vào, có ra” trở thành bình thường trong công tác cán bộ.
(Thực tế cho thấy, trong công tác cán bộ hiện nay, chủ yếu là có lên và rất ít khi “có xuống”, có vào nhưng ít khi “có ra” trừ khi bị thi hành kỷ luật, vì văn hóa từ chức, từ nhiệm, tự giác nhận trách nhiệm trước những vấn đề xảy ra thuộc thẩm quyền quản lý của mình chưa hình thành. Nghị quyết này xác định phải hoàn thiện các quy định để việc “vào, ra, lên, xuống” trở thành việc bình thường; đồng thời, kết hợp với việc nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng để dần hình thành văn hóa từ chức, từ nhiệm cũng là việc bình thường).
(13) Xây dựng chính sách nhà ở cho cán bộ, công chức, viên chức theo hướng: Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách công khai, minh bạch đối với từng đối tượng; địa phương quy hoạch đất ở, nhà ở cho cán bộ, công chức, viên chức; cán bộ, công chức, viên chức mua và thuê mua nhà ở.
(Hiện nay, việc xin được đất, được nhà là do từng cơ quan, đơn vị tự chủ động xin đất, xin nhà nên nếu đơn vị nào tích cực, quan hệ tốt thì xin được, thậm chí nhiều lần. Ngược lại cơ quan, đơn vị nào không tích cực hoặc không xin thì không có gì. Tình trạng bất hợp lý này là do chưa có chính sách chung về nhà ở, đất ở cho cán bộ, công chức, viên chức một cách chính danh, công khai, minh bạch. Các nước đang phát triển và cả một số nước đã phát triển vẫn có chính sách nhà ở cho cán bộ, công chức, viên chức).
(14) Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xử lý nghiêm những người có sai phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.
(Quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu là một việc làm khó vì xác định ranh giới trách nhiệm giữa người đứng đầu với cấp ủy, ban lãnh đạo cùng cấp thế nào cho rõ ràng, rành mạch; rồi nguyên tắc tập trung dân chủ thế nào?. Hiện đang tích cực nghiên cứu và khẩn trương xây dựng bằng được để khi có sai phạm dễ xử lý trách nhiệm. Hiện nay, Bộ Chính trị đã giao cho Ban Tổ chức TW tham mưu xây dựng quy định này, rất mong các cấp ủy, tổ chức đảng phối hợp cùng chúng tôi để sớm hoàn thiện).
(15) Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ và tập trung vào vấn đề chính trị hiện nay. Không xem xét quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử khi chưa có kết luận về tiêu chuẩn chính trị.
(Chú trọng xem xét về lập trường, quan điểm, động cơ, thái độ chính trị, đạo đức, lối sống, phát ngôn trái với đường lối của Đảng, chính sach, pháp luật của Nhà nước... của cán bộ; chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời và đấu tranh có hiệu quả với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ).
(16) Tiếp tục mở rộng thí điểm thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng. Đồng thời, thực hiện các thí điểm: Một, người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ theo một quy trình nhất định, bảo đảm các nguyên tắc của Đảng và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình. Hai, giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định đó.
(Việc thí điểm giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ, miễn nhiệm cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định đó nhằm đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; những cán bộ được bổ nhiệm vẫn phải trong quy hoạch, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện và thực hiện theo một quy trình nhất định; quy trình này sẽ được nghiên cứu xây dựng sao cho chặt chẽ, phù hợp, thông thoáng nhưng kiểm soát được quyền lực để tiến cử được người thực sự có đức, có tài).
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới (với 6 nội dung chủ yếu).
(1) Phải coi trọng trang bị kiến thức về công tác cán bộ cho lãnh đạo các cấp. Tập trung nâng cao chất lượng bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
(Hiện nay, một số nơi cán bộ lãnh đạo còn xem nhẹ, hoặc chưa đủ kiến thức về công tác cán bộ, do vậy phải coi trọng công tác bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ lãnh đạo về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ nắm chắc những nguyên tắc, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước).
 (2) Đẩy mạnh thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ và đặc biệt quan tâm bồi dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận. Chủ động nắm, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đối với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc ở trong nước và nước ngoài.
(Riêng đối với sinh viên tốt nghiệp ở nước ngoài khi được tuyển dụng thì cần phải chú trọng hơn việc đào tạo, bồi dưỡng về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như lịch sử và văn hóa truyền thống của dân tộc).
(3) Khẩn trương cơ cấu, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành theo vị trí việc làm, khung năng lực, bảo đảm đúng người, đúng việc, giảm số lượng, nâng cao chất lượng, hợp lý về cơ cấu.
(Nếu chúng ta làm tốt công tác này sẽ góp phần tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phù hợp và hiệu quả hơn).
(4) Nghiên cứu thực hiện cơ chế, chính sách đồng bộ liên thông giữa cán bộ, công chức cấp xã với cán bộ, công chức nói chung; giữa nguồn nhân lực ở khu vực công và khu vực tư; có cơ chế cạnh tranh vị trí việc làm để nâng cao chất lượng và tiến tới bỏ chế độ “biên chế suốt đời”.
(Hiện nay, cán bộ khi đã vào biên chế là mặc nhiên làm việc đến lúc nghỉ hưu trừ trường hợp vi phạm kỷ luật, buộc thôi việc mà không có cơ chế cạnh tranh, sàng lọc thường xuyên, vì thế tạo sức ỳ trong đội ngũ cán bộ. Vì vậy, cần có cơ chế cạnh tranh vị trí việc làm để nâng cao chất lượng và tiến tới bỏ chế độ “biên chế suốt đời”).
(5) Quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ các cấp theo hướng:
Một, xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về cán bộ.
Hai, địa phương, cơ quan, đơn vị phải quản lý cán bộ theo quy định.
Ba, cơ quan sử dụng cán bộ xây dựng cơ chế quản lý chặt chẽ, phù hợp cán bộ trong và ngoài giờ làm việc.
Bốn, người đứng đầu chịu trách nhiệm về quản lý cán bộ theo phân cấp.
Năm, mỗi cán bộ có trách nhiệm thực hiện nghiêm các quy định, quy chế, cam kết của mình.
(Đây là giải pháp nhằm khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý cán bộ ở một số nơi như vừa qua
(6) Kiểm soát chặt chẽ, sàng lọc kỹ càng những cán bộ năng lực hạn chế, uy tín thấp, không bảo đảm sức khỏe, có sai phạm, không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm, đến tuổi nghỉ hưu. Không lấy việc bố trí chức vụ, phong hàm, phong thăng quân hàm, nâng ngạch để thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.
(Ngoài phẩm chất, năng lực, uy tín, cán bộ cần có sức khỏe để thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Vừa qua, Ban Bí thư đã ban hành Quy định 121 về trách nhiệm khám sức khỏe định kỳ, đề nghị các đồng chí thực hiện nghiêm quy định này).
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ tư, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ (với 9 nội dung chủ yếu)
Xác định vị trí đặc biệt quan trọng của cán bộ cấp chiến lược, Trung ương đã đề ra nhóm nhiệm vụ, giải pháp riêng.
(1) Phát hiện, lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ tiêu biểu, xuất sắc đã được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện theo chức danh, nhất là những người đã được thử thách qua thực tiễn, có thành tích nổi trội, có “sản phẩm” cụ thể, có triển vọng phát triển.
(2) Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ; bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng lãnh đạo, quản lý, khoa học tổ chức và định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng.
(3) Xây dựng kế hoạch cụ thể để luân chuyển, điều động giữ vị trí cấp trưởng ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng yếu, nơi triển khai mô hình mới để thử thách, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, nhân sinh quan cách mạng, năng lực lãnh đạo toàn diện của cán bộ.
(Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề này, nên từ đầu nhiệm kỳ đến nay Trung ương và các cấp ủy địa phương đang tích cực thực hiện một cách chắc chắn, bài bản hơn).
(4) Tổ chức các lớp dự nguồn cán bộ cao cấp để chuẩn bị tốt nguồn nhân sự cán bộ cấp chiến lược, nhất là nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, lãnh đạo chủ chốt các ban, bộ, ngành và các tỉnh, thành phố.
(Vừa qua, Bộ Chính trị đã tổ chức lớp bồi dưỡng kiến thức cho các đồng chí là Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng. Đang nghiên cứu để tổ chức các lớp bồi dưỡng khác cho các đối tượng cần thiết).
(5) Đánh giá chính xác nhân sự được quy hoạch, giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm vào các chức danh cấp chiến lược. Kiên quyết không để lọt những người không xứng đáng, chạy chức, chạy quyền vào cán bộ cấp chiến lược.
(Từ nay đến đại hội, ta sẽ thể chế hóa, cụ thể hóa nội dung này).
(6) Định kỳ rà soát, bổ sung quy hoạch nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội cho các nhiệm kỳ tiếp theo.
(Đang nghiên cứu triển khai vào thời điểm phù hợp).
(7) Tập trung xây dựng Ban Chấp hành Trung ương theo hướng nâng cao chất lượng, có số lượng, cơ cấu hợp lý, thực sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, gương mẫu về mọi mặt.
(8) Chủ động chuẩn bị nhân sự, xây dựng “hình ảnh” đối với các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
(9) Xây dựng tiêu chuẩn và có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đối với Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng theo hướng chỉ lựa chọn cán bộ trẻ, thật sự ưu tú và có cơ cấu hợp lý giữa Trung ương với địa phương, giữa các ngành nghề, lĩnh vực trong hệ thống chính trị.
(Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng phải là những cán bộ trẻ, ưu tú, có năng lực vượt trội, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhất là những đồng chí đã được thử thách ở những địa bàn trọng yếu, những lĩnh vực quan trọng, đáp ứng yêu cầu phát triển cao của đất nước).
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ năm, kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền (với 5 nội dung chủ yếu)
Vấn đề kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền đang là vấn đề nhức nhối, gây bức xúc trong dư luận. Vì thế, các cấp ủy, tổ chức đảng phải kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả vấn nạn này. Trong mục tiêu đã xác định rất cương quyết, phần giải pháp xin giới thiệu với các đồng chí nội dung cơ bản:
(1) Xây dựng và hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, bảo đảm mọi quyền lực đều được kiểm soát chặt chẽ bằng thể chế, cơ chế; quyền hạn phải được ràng buộc bằng trách nhiệm.
(Quyền hạn càng cao, trách nhiệm càng lớn thì càng phải kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng đã nói “phải kiểm soát quyền lực bằng cơ chế” và “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”).
(2) Thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự theo quy định; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu. Xác minh, xử lý kịp thời, hiệu quả, hợp lý thông tin phản ảnh từ các tổ chức, cá nhân và phương tiện thông tin đại chúng.
(3) Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra theo định kỳ, đột xuất và theo chuyên đề, chuyên ngành; của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên. Coi trọng cả cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm.
(4) Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Hủy bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về công tác cán bộ và xử lý nghiêm sai phạm, không có “vùng cấm”.
(Thực hiện Kết luận số 43-TB/TW của Bộ Chính trị, các địa phương, cơ quan, đơn vị đang triển khai việc tự rà soát, kiểm tra, xem xét lại các quyết định về công tác cán bộ từ tháng 6/2012 đến nay).
(5) Phải coi chạy chức, chạy quyền là hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ. Nhận diện rõ, đấu tranh quyết liệt, hiệu quả với các đối tượng có biểu hiện, hành vi chạy chức, chạy quyền. Coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng và danh dự của cán bộ để hình thành văn hóa không chạy chức, chạy quyền.
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ sáu, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ (với 5 nội dung cơ bản)
(1) Thể chế hóa, cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
(Thời gian qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều chủ trương như: Quyết định số 217-QĐ/TW, số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị; Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 03/10/2017 và Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 02/02/2018 của Ban Bí thư. Nhưng việc thể chế hóa, cụ thể hóa để thực hiện hiệu quả chưa cao, vì vậy thời gian tới cần phải đẩy mạnh hơn nữa các công việc này).
 (2) Thường trực cấp ủy các cấp ở địa phương định kỳ tiếp dân; bí thư, phó bí thư, ủy viên ban thường vụ và cấp ủy viên dự sinh hoạt với chi bộ khu dân cư; đảng viên công tác tại xã, phường, thị trấn sinh hoạt đảng tại chi bộ khu dân cư.
 (Để gắn bó mật thiết hơn giữa Đảng với dân, Ban Bí thư đang cho tổng kết mô hình chi bộ cơ quan, xã, phường, thị trấn và đề xuất theo hướng sao cho đảng viên gần dân, sát dân hơn).
(3) Thực hiện việc phân công cán bộ, đảng viên phụ trách hộ gia đình nơi cư trú với các hình thức phù hợp để: Đảng viên nơi cư trú gắn bó mật thiết với nhân dân; truyền đạt chủ trương, đường lối của Đảng đến với nhân dân và lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; nắm chắc tình hình cơ sở và qua đó, nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là giám sát về đạo đức, lối sống.
(Đến nay, cả nước có trên 5 triệu đảng viên và gần 25 triệụ hộ gia đình. Như vậy, nếu phân công đảng viên phụ trách hộ thì mỗi đảng viên sẽ phụ trách khoảng 5 hộ gia đình. Như vậy, đảng viên sẽ có điều kiện bám sát và nắm chắc cơ sở hơn).
(4) Cụ thể hóa để thực hiện có hiệu quả cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát trong công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
(Đây là việc rất khó, nhưng cần phải cụ thể hóa để thực hiện thế nào cho có hiệu quả bằng các cơ chế cụ thể và có tính khả thi).
(5) Nghiên cứu mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị một cách phù hợp.
(Ngoài phát huy vai trò của nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng đội ngũ cán bộ theo Quy định 99-QĐ/TW của Ban Bí thư; Bộ Chính trị đã giao cho Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp xây dựng quy định mở rộng các hình thức thăm dò dư luận xã hội về sự hài lòng của người dân với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thông chính trị).
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ bảy, nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ (với 5 nội dung chủ yếu)
(1) Thường xuyên chăm lo, xây dựng, củng cố cơ quan tham mưu và đội ngũ làm công tác cán bộ thật sự trong sạch, vững mạnh; đặc biệt coi trọng lựa chọn, bố trí đúng người đứng đầu cơ quan tổ chức cán bộ.
(2) Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ theo chức năng, nhiệm vụ của mình.
(3) Xây dựng mô hình tổ chức bộ máy, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ các cấp theo hướng: rà soát chức năng, nhiệm vụ; giảm đầu mối, tránh chồng chéo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ trong hệ thống chính trị.
(Như các Nghị quyết gần đây của Trung ương, Bộ Chính trị đã xác định vấn đề cách thức tổ chức thực hiện sao cho có hiệu quả).
(4) Tăng cường giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện để nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác cán bộ “trung thành, trung thực, gương mẫu, trong sáng, tinh thông” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Nghiêm trị các hành vi tiêu cực, nhất là tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Coi trọng và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác cán bộ ở các cấp, các ngành; kiểm soát chặt chẽ thực hiện quy trình công tác cán bộ.
(5) Kịp thời sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, quy định, quy chế và những chủ trương thí điểm, mô hình mới, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả; nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển lý luận về công tác tổ chức, cán bộ.
(Lâu nay, việc nghiên cứu cơ bản về tổ chức bộ máy và cán bộ chưa được quan tâm đúng mức; thiếu hệ thống quản lý và thống kê cơ bản; tổ chức của cơ quan tham mưu còn phân tán, đội ngũ cán bộ thiếu chuyên nghiệp, chưa có cơ quan chuyên trách làm công tác nghiên cứu khoa học về tổ chức, cán bộ. Việc sơ kết, tổng kết thực tiễn còn xem nhẹ, thiếu bài bản. Phải sớm khắc phục tình trạng này).
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ tám, một số nội dung cơ bản về công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc (có 4 nội dung cơ bản)
(1) Cụ thể hóa, hoàn thiện các văn bản về đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc, nhất là phương hướng công tác nhân sự.
 (2) Rà soát kỹ, bổ sung đầy đủ thông tin, đánh giá chính xác, nắm chắc cán bộ và vấn đề chính trị của cán bộ; tăng cường thực hiện việc bố trí, sắp xếp, điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ và phải có các phương án phù hợp, hiệu quả để thực hiện việc bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương theo mục tiêu đề ra.
(3) Tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ dự nguồn trong quy hoạch để chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ các cấp.
(Cả Trung ương và các cấp ủy, tổ chức đảng phải chủ động thực hiện nhiệm vụ này).
 (4) Ban thường vụ cấp uỷ từng cấp căn cứ tình hình cụ thể để sử dụng các cơ quan chuyên môn một cách phù hợp để khảo sát, đánh giá nhân sự theo phân cấp, chủ động chuẩn bị nhân sự đại hội và các công việc cần thiết khác có liên quan.
(Cấp ủy các cấp lập Tổ công tác để trực tiếp khảo sát, gặp gỡ, trao đổi, tiếp nhận ý kiến phản ánh của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến nhân sự đại hội Đảng cấp mình).
Để thực hiện tốt 08 nhóm nhiệm vụ, giải pháp nêu trên, Nghị quyết xác định hai trọng tâm và năm đột phá sau:
- Hai trọng tâm là:
(1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ; chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo cơ chế, môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
(2) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của cán bộ và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.
- Năm đột phá là:
(1) Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương.
(2) Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời những người năng lực hạn chế, uy tín thấp, không bảo đảm sức khỏe, có sai phạm; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền.
(3) Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện.
(4) Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để cạnh tranh lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm.
(5) Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC THỰC HİỆN NGHỊ QUYẾT
1. Về học tập, quán triệt, triển khai Nghị quyết
(1) Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị phải tổ chức học tập, quán triệt nghiêm túc Nghị quyết và Kế hoạch thực hiện để cán bộ, đảng viên nhận thức rõ thực trạng công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ hiện nay; nắm vững các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Nghị quyết.
(2) Trên cơ sở Nghị quyết của Trung ương, Kế hoạch của Bộ Chính trị, Kế hoạch của Quân ủy Trung ương, xây dựng Kế hoạch, chương trình thực hiện Nghị quyết của cơ quan, đơn vị mình phù hợp với thực tiễn; xác định rõ trách nhiệm và phân công nhiệm vụ cụ thể đối với từng tổ chức, cá nhân; thời gian thực hiện và hoàn thành từng nhiệm vụ.
(3) Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả; tăng cường kiểm tra, giám sát, định kỳ đánh giá, báo cáo kết quả thực hiện theo Kế hoạch để kiểm soát nội dung và tiến độ.
2. Những nhiệm vụ chung, thực hiện thường xuyên
Khi có Kế hoạch của Đảng ủy Quân khu căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển biến rõ nét về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ quan, đơn vị mình./.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét