Thứ Ba, 18 tháng 8, 2015

Câu hỏi thi viết tìm hiểu "70 năm lịch sử vẻ vang Quân khu 7"


CÂU HỎI THI VIẾT TÌM HIỂU
“70 NĂM LỊCH SỬ VẺ VANG QUÂN KHU 7”

1.    Hình thức: Bài dự thi được viết tay (hoặc đánh máy) bằng tiếng việt, đóng thành quyển.
2.    Nội dung thi: Gồm 5 câu hỏi như sau:
Câu 1. Quân khu 7 được thành lập ngày, tháng, năm nào? Ở đâu? Chỉ thị nào của Trung ương Đảng, Nghị quyết nào của Xứ ủy Nam Bộ quyết định đến công cuộc xây dựng LLVT ở miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ phát triển đúng hướng và vững chắc? Quá trình hình thành, phát triển của Quân khu 70 năm qua? Tư lệnh, Chính ủy? (Phó Tư lệnh về chính trị) Quân khu qua các thời kỳ?
Câu 2. Những nét tiêu biểu truyền thống vẻ vang của LLVTQK7?
Câu 3. Những địa danh lịch sử cách mạng nổi tiếng trên địa bàn QK7?
Câu 4. Những trận đánh, chiến dịch tiêu biểu của quân và dân Quân khu 7 trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược?
Câu 5. Viết cảm tưởng hoặc kỷ niệm sâu sắc của bản thân, gia đình về người chiến sĩ Quân khu 7, về mối quan hệ đoàn kết gắn bó giữa LLVT Quân khu 7 với nhân dân và trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay? (không quá 1000 từ)
(Riêng câu 5 viết không quá 1.000 từ, tương đương 3 trang A4 viết tay hoặc đánh máy tính cỡ chữ 14 Times New Roman)


 



*******************************************************************************

ĐỀ CƯƠNG
Gợi ý một số nội dung thi tìm hiểu “70 năm lịch sử vẻ vang Quân khu 7”
 



Trên cơ sở những tư liệu trong cuốn lịch sử LLVT Quân khu 7 (1945-2010) và những tài liệu, văn bản khác. Căn cứ vào câu hỏi cuộc thi tìm hiểu “70 năm lịch sử vẻ vang Quân khu 7”, phần trả lời các câu hỏi như sau:

Câu 1:  Quân khu 7 được thành lập ngày, tháng, năm nào? Ở đâu? Chỉ thị nào của Trung ương Đảng, Nghị quyết nào của Xứ ủy Nam Bộ quyết định đến công cuộc xây dựng LLVT ở miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ phát triển đúng hướng và vững chắc? Quá trình hình thành, phát triển của Quân khu 70 năm qua? Tư lệnh, Chính ủy (Phó Tư lệnh về Chính trị) Quân khu qua các thời kỳ?
1. Ngày thành lập
Quân khu 7 được thành lập ngày 10/12/1945.
2. Nơi thành lập
Xã Bình Hòa Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn (nay là xã Bình Hòa Nam, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An).

3. Chỉ thị của nào của Trung ương Đảng, Nghị quyết nào của Xứ ủy Nam Bộ quyết định đến công cuộc xây dựng LLVT ở miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ phát triển đúng hướng và vững chắc?
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trên địa bàn miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, các đơn vị vũ trang tập trung lần lượt ra đời. Đó là những đơn vị vũ trang do đảng viên cộng sản hoặc cán bộ cách mạng cốt cán đứng ra tập hợp, chỉ huy, gọi là bộ đội. Tên người chỉ huy được lấy để gọi tên đơn vị; điển hình như: bộ đội Cao Đức Luốc, Huỳnh Tấn Chùa, Tô Ký, Nguyễn Văn Thược, Huỳnh Văn Một, Thái Văn Lung, Đào Sơn Tây, Dương Văn Dương... (Sài Gòn); Huỳnh Văn Nghệ (Biên Hòa), Huỳnh Kim Trương (Thủ Dầu Một), Trần Văn Đẩu (Tây Ninh), Lê Văn Tưởng (Tân An), Đoàn Tử Bảy (Bình Thuận), Nguyễn Chí Điềm (Lâm Viên, Đồng Nai Thượng)... Tại một số huyện, chính quyền cách mạng xây dựng đơn vị bộ đội riêng cho huyện mình.
Bên cạnh những đơn vị vũ trang tập trung nêu trên, tại Sài Gòn, Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ tiếp nhận một đơn vị vũ trang vốn là Bảo an binh cũ có bổ sung thêm công nhân, thanh niên học sinh và một số đảng viên cộng sản vào làm nòng cốt, gọi là Cộng hòa vệ binh, tổ chức thành Đệ nhất sư đoàn. Tổ chức Cộng hòa vệ binh còn được xây dựng ở một số tỉnh, lực lượng có từ một, hai đại đội đến một tiểu đoàn. Thành phần trong các đơn vị vũ trang tập trung đại bộ phận là nông dân, công nhân, lao động thành thị, thanh niên học sinh, nhân sĩ trí thức; được trang bị ngoài một ít súng trường cũ của Pháp, Anh, Nhật, súng lục và lựu đạn, còn lại chủ yếu là giáo mác, gậy tầm vông vạt nhọn.
Trước hành động xâm lược của giặc Pháp, với lòng yêu nước tha thiết và trong khí thế hừng hực cách mạng sau ngày Tổng khởi nghĩa, chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng vũ trang của ta đã phát triển hết sức nhanh chóng. Tuy nhiên, thành phần hợp thành các đơn vị vũ trang khá phức tạp, hầu hết chưa có kinh nghiệm chiến đấu và thiếu trang bị, từng đơn vị hoạt động chiến đấu độc lập, thiếu chỉ huy chung, thậm chí một số đơn vị nằm ngoài sự lãnh đạo, quản lý của tổ chức Đảng và chính quyền cách mạng địa phương. Tình hình đặt ra cần có một chủ trương đúng đắn nhằm thống nhất, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của cuộc kháng chiến.
* Hội nghị Cán bộ Đảng Nam Bộ (25-10-1945)
Kịp thời chỉ đạo cuộc kháng chiến đang ngày càng lan rộng, đặc biệt là thống nhất và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, ngày 25-10-1945, Xứ ủy Nam Bộ tổ chức tiến hành Hội nghị Cán bộ Đảng ở Thiên Hộ, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Dự Hội nghị có các đồng chí Hoàng Quốc Việt, ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng và một số đồng chí khác vừa từ Nhà ngục Côn Đảo trở về; có các thành viên trong Xứ ủy và đại biểu Đảng bộ các tỉnh, thành Nam Bộ.
Hội nghị phân tích tình hình, kiểm điểm, rút kinh nghiệm công tác chỉ đạo kháng chiến từ Hội nghị Cây Mai, Chợ Lớn (23-9-1945). Hội nghị biểu dương tinh thần chiến đấu ngoan cường và thành tích chiến đấu anh dũng của quân và dân Nam Bộ. Hội nghị cũng chỉ rõ những sai lầm, thiếu sót trong việc xây dựng và tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Hội nghị đề ra nhiều biện pháp cấp thiết để củng cố và xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, đặt lực lượng vũ trang dưới sự lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối của Đảng; phát triển chiến tranh du kích thực hiện tiêu thổ kháng chiến; làm vườn không nhà trống, vận động quần chúng bất hợp tác với địch.
Hội nghị nhất trí bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Bí thư Xứ ủy. Đồng chí Tôn Đức Thắng không nhận mà đề cử đồng chí Lê Duẩn đảm nhận trách nhiệm này. Hội nghị nhất trí và phân công đồng chí Tôn Đức Thắng phụ trách ủy ban Kháng chiến và chỉ đạo lực lượng vũ trang.
* Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (25-11-1945)
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc. Dựa trên những nhận định về tình hình khách quan và chủ quan về tình hình ta, địch, Chỉ thị chỉ rõ: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập". Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết". Chỉ thị xác định, kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là "thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng", đề ra nhiệm vụ cần kíp của nhân dân Đông Dương đối với cách mạng thế giới. Đối với cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ riêng, cần kíp là củng cố chính quyền; chống thực dân Pháp xâm lược; bài trừ nội phản; cải thiện đời sống nhân dân”.
Chỉ thị đã đề ra những nhiệm vụ cho từng mặt công tác, trong đó về quân sự, Chỉ thị xác định: Động viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài, dùng lối đánh du kích với phương pháp bất hợp tác triệt để.
Chỉ thị nhấn mạnh: muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên "Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được củng cố và phát triển. Đảng phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật và nửa công khai của Đảng, tuyển thêm đảng viên; giữ vững sinh hoạt của Đảng; thành lập Đảng đoàn trong các cơ quan hành chính và các đoàn thể quần chúng; xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội;
Tóm lại: Nghị quyết của Hội nghị Cán bộ Đảng Nam Bộ  (25-10-1945) và Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (25-11-1945) có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc xây dựng LLVT ở Nam Bộ nói chung. Nó tạo điều kiện cho LLVT ở miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ phát triển một cách đúng hướng và vững chắc. Đó là LLVT cách mạng, do Đảng ta sáng lập và lãnh đạo, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.
4. Quá trình hình thành, phát triển 70 năm qua của QK7
Ngày 23/09/1945, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài gòn, chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ 2. Quân và dân Nam bộ, trước hết là quân và dân Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định đã thay mặt cả nước đứng lên chiến đấu, cuộc chiến lan rộng ra khắp miền Đông và sau đó là miền Tây Nam bộ.
Để có sự thống nhất trong chỉ huy, chỉ đạo ngày 10/12/1945 tại Hội nghị quân sự Nam bộ do Xứ ủy tổ chức (họp ở xã Bình Hoà Nam - huyện Đức Hòa tỉnh Chợ Lớn nay thuộc tỉnh Long An) đã ra quyết định thành lập Khu 7 - một tổ chức quân sự hành chính do các đồng chí Nguyễn Bình làm Khu bộ trưởng, Trần Xuân Độ làm Chủ nhiệm Chính trị bộ (1).
Địa bàn Khu 7 khi thành lập  bao gồm phần đất Nam bộ ở phía Đông sông Vàm cỏ Đông, gồm các tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn và TP Sài Gòn. Đến tháng 12/1948 có quyết định thành lập khu Sài Gòn trực thuộc Bộ Tư lệnh Nam bộ thì khu 7 chỉ còn lại các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa-Thủ Dầu Một, Tây Ninh, đến tháng 5/1950 khu 7 và khu Sài Gòn-Chợ Lớn sát nhập lại như cũ.
Tháng 6/1951, tổ chức chiến trường Nam bộ có sự thay đổi lớn. Chiến trường Nam bộ được chia thành 2 phân liên khu và 1 đặc khu. Đó là Phân liên khu miền Đông, Phân liên khu miền Tây (lấy sông Tiền làm ranh giới) và đặc khu Sài Gòn. (Lâm Đồng, Bình Thuận trong kháng chiến chống Pháp thuộc khu 5).
Phân liên khu miền Đông gồm các tỉnh: Thủ Biên (do Thủ Dầu Một và Biên Hòa sát nhập), Gia Định Ninh  (do Gia Định và Tây Ninh sát nhập) Bà Chợ (do Bà Rịa và Chợ Lớn sát nhập), Mỹ Tho (gồm Mỹ Tho, Gò Công và Tân An sát nhập). Long Châu Sa (do phần Long Xuyên, phần Châu Đốc phía Đông sông Tiền và Sa Đéc sát nhập). Toàn Nam bộ 20 tỉnh, lúc đó sát nhập còn 10 tỉnh.

Sau Hiệp định Giơnevơ 7/1954, chấp hành chỉ thị của trên, phần lớn các đơn vị bộ đội tập trung ở miền Đông, tập kết chuyển quân ra Bắc. Số cán bộ còn lại tiếp tục chuẩn bị lực lượng đáp ứng yêu  cầu  của giai đoạn cách mạng mới. Hai phân liên khu miền Đông và miền Tây được lệnh giải thể chỉ còn giữ lại đặc khu Sài Gòn hoạt động bí mật.
Trong kháng chiến chống Mỹ, miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ thuộc chiến trường B2. Chiến trường  B2 gồm Nam bộ, một phần cực Nam Trung bộ và Tây Nguyên (Gia Nghĩa, Lâm Đồng, Ninh Thuận và Đắc Lắc ngày nay). B2 bấy giờ  chia thành 4 khu: khu 6 (gồm phần cực Nam Trung bộ), khu 7, khu 8, khu 9.
Riêng ở địa bàn miền Đông Nam bộ từ tháng 5 năm 1961 có 2 Quân khu: Quân khu 7 (mật danh T1, hay T7; gồm các tỉnh: Phước Ty, Long Khánh, Phước Long, Bình Long, Bình Dương, Tây Ninh, Biên Hòa, Bà Rịa) và Quân khu Sài Gòn-Gia Định (mật danh T4 hay l4).
Đến tháng 10 năm 1967, để tổ chức lại chiến trường chuẩn bị cho đợt tổng công kích Mậu Thân 1968 trên quyết định giải thể khu 7 và Quân khu Sài Gòn-Gia Định, tổ chức khu trọng điểm với trung tâm là Sài Gòn, chia địa bàn miền Đông (lúc này có thêm tỉnh Long An) ra làm 6 phân khu, trong đó có 5 phân khu trong và ven đô, hình thành các mũi tiến công vào Sài Gòn. Phân khu I (Bắc-Tây Bắc), phân khu 2 (Tây-Tây Nam), Phân khu 3 (Tây Nam) phân khu 4 (Đông Nam), phân khu 5 (Đông-Đông Bắc), phân khu 6 (Phân khu Trung tâm) và tổ chức 2 Bộ Tư lệnh (Bộ Tư lệnh tiền phương Bắc và Bộ tư lệnh tiền phương Nam).
Đến thời kỳ chống "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ, năm phân khu (1, 2, 3, 4, 5) sát nhập còn 4 phân khu (phân khu 2 và 3 sát nhập thành phân khu 23) và phân khu nội đô (Trung tâm). Đến 19/08/1972, do vị trí của chiến trường miền Đông Nam bộ là chiến trường quan trọng  nên trên quyết định thành lập lại Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn-Gia Định. Quân khu 7 lúc này gồm các tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh, Phước Bình, (Phước Long-Bình Long) Tây Ninh, Bình Dương, Long An.
Sau ngày toàn thắng, theo quyết định của Quân ủy Trung ương (02/07/1976). Bộ chỉ huy Miền (B2) được giải thể, các Quân khu 5,7,9 được thành lập, chiến trường miền Đông chính là Quân khu 7 (từ 1976 đến  1998 với 7 tỉnh thành: Đồng Nai, BR-VT, Long An, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước và TP.HCM). Từ tháng 12/1998 , Quân khu 7 có thêm 2 tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng. Hiện nay Quân khu 7 có 9 tỉnh (thành phố) đó là:
1. Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Long An.
3. Đồng Nai.
4. Tây Ninh.
5. Bà Rịa - Vũng Tàu.
6. Bình Dương.
7. Bình Phước.
8. Bình Thuận.
9. Lâm Đồng.
Thời kỳ  kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954).
LLVT cách mạng ở miền Đông Nam bộ ra đời từ sau CMT8/1945. Cùng với quá trình phát triển của sự nghiệp kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng và được nhân dân che chở, nuôi dưỡng, LLVT 3 thứ quân ở miền Đông Nam bộ lần lượt hình thành và gắn liền với các phong trào cách mạng của nhân dân, gắn liền với từng bước đi của lịch sử dân tộc.
Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, quân và dân miền Đông Nam bộ trước hết là quân và dân thành phố Sài Gòn đã anh dũng đứng lên kháng chiến. Trong hoàn cảnh khó khăn bỡ ngỡ của buổi đầu đánh giặc, quân và dân Sài Gòn-Chợ lớn-Gia Định  đã vây hãm quân địch trong thành phố, tạo điều kiện cho nhân dân toàn miền củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng LLVT, xây dựng căn cứ  địa, chuẩn bị tinh thần và thực lực mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài. Sau gần 15 tháng chiến đấu, quân và dân miền Đông Nam bộ đã hoàn thành nhiệm vụ "đi trước" mà lịch sử giao phó, góp phần làm xáo trộn kế hoạch chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, tạo điều kiện về thời gian cho nhân dân cả nước chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến một cách chủ động.
Từ năm 1947 đến năm 1950, địa bàn miền Đông Nam bộ là một trong những trọng điểm "Bình Định" của địch, một trong những hậu phương dự trữ  chiến lược  của chúng ở chiến trường Việt Nam. Quân dân miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ đã tập trung nỗ lực chống lại chính sách "Bình Định" của địch, chấn chỉnh và xây dựng LLVT 3 thứ quân, sáng tạo ra nhiều cách đánh độc đáo  và có hiệu quả trong chống càn quét, trong phục kích giao thông, trong tiến công đồn bốt, cứ điểm, tháp canh và tổ chức chiến dịch lớn. Đây cũng là giai đoạn mà phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Cuộc kháng chiến được đẩy mạnh  trên mọi mặt, góp phần đánh bại chính sách "Bình Định" của địch.
 Giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, trong điều kiện bị địch chia cắt, phong tỏa và càn quét liên miên, quân và dân miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ  giữ vững phong trào, khắc phục những lệnh lạc hữu huynh trong thực hiện phương châm ba vùng, đấu tranh giành giật sức người, sức của với địch.  Đẩy mạnh phong trào đấu tranh du kích, kết hợp với phong trào đấu tranh đô thị và địch ngụy vận, cầm chân địch tại chỗ, không ngừng mở rộng căn cứ  địa và xây dựng  cuộc sống mới mọi mặt ở vùng giải phóng, quân dân miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ đã từng bước giành lại thế chủ động, tạo thế, tạo lực, tích cực góp phần cùng quân và dân cả nước tiến công địch trong Đông-Xuân 1953-1954, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Thời  kỳ kháng chiến  chống Mỹ, cứu nước (1954- 1975):
Từ sau Hiệp định Giơnevơ, đế quốc Mỹ từng bước nắm chính quyền thống trị miền Nam Việt Nam, gạt Pháp và mọi thế lực thân Pháp, xây dựng bọn tay sai ngụy quyền, ngụy quân, thực hiện chính sách thực dân mới, tiến hành đánh phá quyết liệt cách mạng Miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ đã vững bước vào cuộc chiến đấu trong mối tương quan lực lượng không cân sức, dần dần gầy dựng lực lượng, cùng với đồng bào cả nước thực hiện cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ của dân tộc.
Ngay những ngày đầu bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong thế trận rất chênh lệch, nhưng nhân dân miền Đông và cực Nam Trung bộ vẫn vững tin vào đường lối chủ trương của Đảng, kiên trì cuộc đấu tranh chính trị đòi địch thi hành hiệp định Giơneve, đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống "tố cộng diệt cộng", chống càn quét, khủng bố, cướp đất, dồn dân. Vừa đấu tranh chính trị, vừa có ý thức chuẩn bị tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang. Nhất là từ sau khi Ban Quân sự và Đảng ủy Miền được thành lập (tháng 12/1956), do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến, ủy viên quân sự Xứ ủy phụ trách thì công tác tích trữ vũ khí,  xây dựng lại 2 căn cứ lớn: Dương Minh Châu, chiến khu D và nhiệm vụ tranh thủ các lực lượng giáo phái càng được đẩy mạnh, từng bước đưa đấu tranh vũ trang từ tự vệ lên tuyên truyền diệt ác, rồi tác chiến, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ. Tháng 06/ 1958, Bộ Tư lệnh miền Đông được thành lập; 15/02/1961 Quân giải phóng miền Nam công bố thành lập  từ sự thống nhất các đơn vị lực lượng vũ trang cánh mạng. Từ đó phong trào đấu tranh và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang cách mạng càng phát triển mạnh mẽ.
Từ 1957 đến đầu năm 1961, các đơn vị đầu tiên của lực lượng vũ trang miền Đông đã thực hiện một số trận đánh, đặc biệt trận đánh quận lỵ Dầu Tiếng (ngày 11/08/1958), sau 30 phút ta tiêu diệt và làm chủ toàn bộ căn cứ 1 tiểu đoàn lính "cộng hòa", gây tiếng vang lớn trong toàn miền Đông và cả nước. Lần đầu tiên từ sau 1954, lực lượng vũ trang miền Đông chiếm được một chi khu quân sự địch. Trận đánh vào trụ sở cơ quan MAAG của Mỹ đóng tại nhà máy của BIF Biên hòa do đặc công biệt động Biên Hoà thực hiện (ngày 09/07/1959), là trận đánh Mỹ dầu tiên trên chiến trường Nam Bộ, diệt 2 tên cố vấn Mỹ, ghi tên đầu tiên trong danh sách lính Mỹ tử trận ở Việt Nam, gây tiếng vang lớn ở chiến trường. Ngày 26/01/1960, lực lượng vũ trang miền Đông đánh trận Tua 2 (Tây Ninh) làm chủ căn cứ một trung đoàn chủ lực ngụy, diệt và làm bị thương, bắt sống nhiều tên, thu nhiều vũ khí trang bị, mở đầu cho phong trào Đồng khởi ở miền Đông. Trong cuộc Đồng khởi 1960, quân dân miền Đông và cực Nam Trung bộ đã đánh sụp ngụy quyền cơ sở, giành quyền làm chủ phần lớn nông thôn (Thủ Dầu Một giải phóng 25/60 xã, Long An giải phóng 2/3 nông thôn, Kiến Tường phá banh gần hết khu trù mật dinh điền, Tây Ninh giải phóng 1/3 nông thôn, vùng ven Sài Gòn kiểm soát hơn 1/2 địa bàn phía Bắc, làm chủ vùng nông thôn Tây, Tây Nam thành phố...).
Từ 1961 đến giữa 1965, khi Mỹ-ngụy đổi chiến lược từ chiến tranh đơn phương sang tiến hành "chiến tranh đặc biệt", quân  dân miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung bộ vẫn giữ vững và phát triển quyền chủ động tiến công địch, nhanh chóng chuyển hướng chiến lược từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng, ra sức xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang ba thứ quân (du kích xã, bộ đội khu và bộ đội chủ lực Miền). Từ năm 1961 đến năm 1965, trên chiến trường miền Đông đã có những đơn vị chủ lực cấp tiểu đoàn, trung đoàn. Trên cơ sở lực lượng phát triển, quân và dân miền Đông và cực Nam Trung bộ đã vận dụng linh hoạt phương châm hai chân, ba mũi, ba vùng. Kết hợp tiến công với nổi dậy, tiêu diệt với làm chủ, sáng tạo nhiều hình thức phong phú của chiến tranh nhân dân, đưa chiến tranh nhân dân phát triển lên trình độ cao, tập trung phá "ấp chiến lược", từng bước làm phá sản "quốc sách ấp chiến lược", liên tiếp đánh bại các kế hoạch bình định của địch, giải phóng từng mảng nông thôn rộng lớn ở miền núi và đồng bằng; đồng thời kết hợp đẩy mạnh phong trào đô thị dẫn đến sự sụp đổ của chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm và sự khủng hoảng của chế độ tay sai của Mỹ.
Trong giai đoạn chiến tranh đăc biệt, LLVT miền Đông và  cực Nam Trung bộ đã đánh nhiều trận tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch. Trong đó tiêu biểu nhất là chiến dịch Bình Giã (từ ngày 02/12/1964 đến 07/01/1965). Đây là lần đầu tiên trên chiến trường  B2 ta mở chiến dịch lớn cấp Sư đoàn.
Bình Giã là trận đánh lớn thứ hai sau Ấp Bắc, ta đánh bại chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận của Mỹ. Diệt và làm bị thương 1.755 tên. Lần đầu tiên ta diệt một tiểu đoàn dù thuộc lực lượng Tổng trù bị của quân ngụy. Chiến dịch Bình Giã là trận đánh mạnh nhất làm sụp đổ chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Đánh giá về tầm quan trọng của chiến dịch này, đồng chí Lê Duẩn viết: "Với trận Ấp Bắc 1963 địch thấy khó thắng ta, sau chiến dịch Bình Giã, địch thấy có thể thua ta". Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì khẳng định: "Chiến dịch Bình Giã đánh dấu sự thất bại về cơ bản của chiến tranh đặc biệt".
Giữa năm 1965 Đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược, tiến hành cuộc "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam. Miền Đông là chiến trường địch tập trung lực lượng cả Mỹ lẫn ngụy cùng khối lượng vũ khí và phương tiện  chiến tranh lớn nhất.
Chiến trường miền Đông lúc này đã có 3 Sư đoàn chủ lực Miền (Sư 9, Sư 5, Sư 7). Bộ đội chủ lực Khu 7 phát triển lên 2 trung đoàn, Quân khu Sài Gòn-Gia Định có 5 tiểu đoàn chủ lực, và đặc khu Rừng Sác được thành lập ngay sát nách Sài Gòn. Với lực lượng  đã phát triển mạnh lại được sự chi viện của cả nước, quân  dân miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung bộ đã chủ động xác định quyết tâm đánh Mỹ, diệt ngụy, vận dụng phương thức, phương châm tiến hành chiến tranh một cách linh hoạt, có hiệu quả, phát huy khả năng đia phương trong việc đảm bảo hậu cần tại chỗ, đặt cơ sở cho việc xây dựng và phát triển mạng lưới hậu cần nhân dân trong chiến tranh, góp phần lần lượt đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất và lần thứ hai của địch, thực hành các cuộc tổng tiến công và nổi dậy trong năm 1968, đánh vào các sào huyệt của địch ở Sài Gòn, giành thắng lợi lớn , góp phần buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh và chịu đàm phán với ta ở Pari.
Trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ từ sau ngày ký Hiệp định Paris (27/01/1973), quân dân miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ đã nhanh chóng khắc phục những lúng túng ban đầu (để cho địch lấn đất, chiếm dân), kịp thời chuyển sang thế tấn công giành chủ động, thực hiện nhiều trận đánh đạt hiệu suất cao như trận Bến Tranh ở Dầu Tiếng, trận đánh kho xăng Nhà Bè (ngày 03/02/1973)… Ngày 20/07/1974 trên chiến trường miền Đông thành lập Quân đoàn 4 chủ lực Miền và thành lập thêm 2 Sư đoàn 3 và 6. Nhằm tạo thêm thế và lực mới, từ ngày 12/12/1974 đến 06/01/1975, ta quyết định mở chiến dịch đường 14 Phước Long,  đồng thời các địa bàn khác như Tánh Linh, Võ Đắc, Tây Ninh, Bắc Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Sài Gòn cùng tiến công. Kết quả: sau 20 ngày chiến đấu, ta giải phóng đường 14, toàn tỉnh Phước Long, chiếm Đài quan sát của địch trên đỉnh núi Bà Rá, giải phóng trên 35.000 dân ở Hoài Đức, Tánh Linh và toàn Quận Tánh Linh.
Ý nghĩa đặc biệt là lần đầu tiên ở miền Nam, ta giải phóng một Tỉnh mà địch không lấy lại được, Mỹ không dám can can thiệp trở lại. Việc giải phóng Phước Long đã trở thành "Đòn trinh sát chiến lược", tạo thêm cơ sở để BCT bàn về quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong năm 1976 hoặc 1975.
Tiếp theo chiến thắng Phước Long, cùng nhịp với chiến dịch Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ đánh giải phóng Dầu Tiếng (từ 11–13/03/1975).
Qua chiến thắng Buôn Ma Thuột-Tây Nguyên và các chiến thắng ở miền Đông Nam Bộ, BCT đã hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975. Trung ương cực miền Nam đã ra quyết định 15 (ngày 29/03/1975) về tổng công kích, tổng khởi nghĩa thực hiện quyết tâm của BCT.
Ngày 07/04/1975, nhiệm vụ được quán triệt tại căn cứ Tà Thiết (Tây Lộc Ninh), Bộ chỉ huy  Chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập.
Lực lượng tại chỗ được thống nhất lại (gồm Sư đoàn 2 đặc công Miền, Lữ 316 đặc công biệt động, các lực lượng của Sài Gòn – Gia Định). Riêng đặc công biệt động có 30 tiểu đoàn. Nhiệm vụ của các lực lượng tại chỗ là đánh chiếm các mục tiêu then chốt có thể chiếm được, phát động nhân dân nổi dậy làm chủ, tạo mọi điều kiện tại chỗ để các quân đoàn tiến vào giải phóng Sài Gòn. Nhiệm vụ đặc biệt là chiếm giữ 14 cây cầu trên các ngả đường tiến về Sài Gòn (chủ yếu do Lữ 316 đặc công biệt động và trung đoàn đặc công 116 thực hiện).
Thực lực chính trị vũ trang Sài Gòn – Gia Định trước Chiến dịch Hồ Chí Minh có: Nội thành 700 cán bộ, ngoại thành có trên 1.000 cán bộ, ngoài ra có 1.300 cán bộ đã tiếp cận nội đô sẵn sàng vào nội đô để phát động quần chúng nổi dậy. Nội thành và vùng ven có 1.290 đảng viên, có hơn 10.000 quần chúng nòng cốt, 40 lõm chính trị với hơn 7.000 quần chúng cơ sở, 400 tổ chức công khai và bí mật với gần 25.000 người do ta nắm.
Biệt động: 60 tổ, 301 quần chúng có vũ trang, 30.000 quần chúng sẵn sàng nổi dậy, trên 3.300 du kích, và trên 300 tự vệ mật.
Các đơn vị tập trung của LLVT tại chỗ và các đơn vị đặc công biệt động đã đến vùng ven.
Ngay sau khi có lệnh trong hai  ngày 29 và 30/04/1975 quân dân miền Đông Nam Bộ đã cùng các binh đoàn chủ lực thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy thành công, kết thúc thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Trong 5 cánh quân tiến vào Sài Gòn, có 2 cánh quân thuộc các lực lượng chiến đấu trên chiến trường Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ đó là Quân đoàn 4 ở hướng Đông và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) ở hướng Tây Nam.
Về nổi dậy: Quần chúng Sài Gòn, Gia Định đã nổi dậy ở 107 khu vực (có 31 khu ngoại thành), 32 khu vực nổi dậy trong ngày 29/04 và rạng sáng 30/04, 34 khu vực nổi dậy trước khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, riêng quân dân Sài Gòn – Gia Định đã diệt và làm tan rã 31.000 tên địch, bắt làm tù binh 12.619, chiếm 9 căn cứ  quân sự, 5 chi khu, 21 phân khu và trụ sở tề, thu 12.275 súng và gần như toàn bộ hồ sơ của địch. Số ngụy quân lần lượt ra trình diện 40 vạn, số công an và cảnh sát 10 vạn. Việc này đã tạo thuận lợi cho ta giải phóng Sài Gòn nguyên vẹn và mọi sinh hoạt, trật tự an ninh thành phố đã ổn định ngay sau đó.
Sau 30/04/1975, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tham gia thực hiện nhiệm vụ quân quản, tổ chức sắp xếp lại lực lượng và tiến hành thành lập QK7 theo chỉ đạo của Trung ương.
Chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc và làm nhiệm vụ Quốc tế (1977–1989):
Vừa ra khỏi cuộc chiến tranh chưa được bao lâu, lực lượng vũ trang Quân khu 7 lại bắt tay vào cuộc chiến đấu mới: cùng nhân dân  khắc phục hậu quả chiến tranh trên tất cả các lĩnh vực, góp phần xây dựng và bảo vệ cuộc sống mới.
Ngày 30/04/1977, cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam do bọn phản bội Pôn-pốt tiến hành đã bắt đầu diễn ra quyết liệt, nhất là từ tháng 09 đến tháng 11/1977. Quân khu 7 vừa tổ chức lực lượng bảo vệ biên giới, vừa thực hiện nhiệm vụ giữ vững an ninh địa bàn.
Cuối năm 1978, đầu năm 1979, theo đề nghị của lực lượng cách mạng CPC và thông suốt chỉ thị của trên, lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã cùng các đơn vị bạn phối hợp với các lực lượng cách mạng Campuchia tiến hành cuộc phản công truy kích bọn Pôn-pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.
Lúc này, để đáp ứng tình hình, theo quyết định của ĐUQSTW, Bộ Tư  Lệnh Quân khu 7 được kiện toàn, do Trung tướng Lê Đức Anh làm Tư lệnh.
Sau khi Campuchia hoàn toàn giải phóng (ngày 07/01/1979), Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang hướng Tây Nam tiếp tục giúp Cách mạng Campuchia bảo vệ thành quả cách mạng.
Cùng với các Quân khu 5, 9 và 1 bộ phận lực lực luợng chủ lực của Bộ, LLVT Quân khu 7 liên tục 10 năm giúp Bạn đã làm tốt nhiệm vụ liên minh chiến đấu, giúp nhân dân Campuchia hồi sinh, từng bước củng cố, xây dựng lực lượng đủ khả năng tự đảm đương nhiệm vụ của mình. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, tháng 09/1989, các đơn vị thuộc QK7 (MT 479 và 779) cùng quân tình nguyện Việt Nam rút toàn bộ về nước.
Nhờ có sự giúp đỡ to lớn, chí tình của Quân tình nguyện Việt Nam, Bạn có đủ thế và lực để thực hiện một giải pháp có lợi cho sự ổn định và phát triển của  đất nước Campuchia. Từ khi thực hiện tổng tuyển cử với sự giám sát của Liên hợp quốc (1991) đến nay, tình hình Campuchia ngày càng ổn định, an ninh biên giới được giữ vững, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ổn định và phát triển của 2 nước và cho cả khu vực.
Huấn luyện, xây dựng, sẵn sàng chiến đấu góp phần làm thất bại chiến lược “DBHB”, BLLĐ của kẻ thù, giữ vững an ninh, chính trị trên địa bàn QK:
Trong bối cảnh quốc tế sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh thực hiện việc xóa bỏ các nước XHCN còn lại bằng chiến lược “DBHB”, BLLĐ kết hợp với răn đe tiến công quân sự, trong đó Việt Nam là một trọng điểm.
Thực tế trên địa bàn Quân khu 7 từ năm 1990 đến nay địch tập trung đánh phá ta bằng nhiều phương tiện và thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Chỉ tính riêng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và các vùng phụ cận đã có hàng chục tổ chức phản động, trong đó tiêu biểu là hoạt động chống đối của nhóm cấp tiến và đảng “Việt Nam tân dân chủ”.
Bọn phản động đã dựa vào một số khuyết điểm và nhược điểm của ta trong việc thực hiện chính sách và một bộ phận cán bộ thoái hoá biến chất rồi khuếch đại, gây mối nghi ngờ giữa quần chúng với Đảng, chính quyền và quân đội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào Nhà nước và chế độ. Từ đó mà xuyên tạc CNXH, tuyên truyền cho cái gọi là tính “ưu việt” của CNTB hiện đại; cài cắm, xây dựng lực lượng tạo phản, thực hiện các cuộc bạo loạn nhằm lật đổ chế độ ta. Các thế lực thù địch triệt để sử dụng chiêu bài “tự do, dân chủ, nhân quyền”, các vấn đề về “dân tộc, tôn giáo” để tạo ra các điểm nóng, làm chúng ta mất ổn định, tạo cớ can thiệp tiến hành lật đổ chế độ.
Trước tình hình trên, nhất là từ sau khi Quân tình nguyện ở Campuchia rút quân về nước, LLVT Quân khu 7 đã kịp thời tăng cường triển khai thực hiện các nhiệm vụ củng cố, xây dựng lực lượng, thực hành huấn luyện không ngừng nâng cao sức mạnh sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, cùng các địa phương xây dựng các khu vực phòng thủ và thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh. LLVT Quân khu đã đoàn kết, phối hợp cùng các lực lượng Công an nhân dân và nhân dân các địa phương thực hiện các nhiệm vụ ngăn chặn, giải quyết các điểm nóng, kịp thời phát hiện, truy quét bọn Fun Rô và các nhen nhóm bạo loạn, làm trong sạch địa bàn, giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, đảm bảo cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội của các tỉnh, thành vững chắc đi lên. Chưa bao giờ 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc lại gắn bó chặt chẽ như hiện nay. Vì thế các lực lượng vũ trang QK càng ngày càng gắn bó với nhân dân các địa phương, phát huy truyền thống và kinh nghiệm trong quá khứ, ra sức xây dựng củng cố nền quốc phòng toàn dân, trong đó chú trọng xây dựng các tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực kinh tế và quốc phòng ngày càng phát triển vững chắc.
 Quân khu và các địa phương đang nỗ lực nâng cao chất lượng tuyển quân, thực hiện tốt Luật nghĩa vụ quân sự, tăng cường củng cố, phát triển lực luợng DQTV, quân DBĐV cùng các công tác đảm bảo khác, góp phần cùng các đơn vị chủ lực của quân xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ, đánh bại chiến lược “DBHB”, “BLLĐ” của địch không để bị bất ngờ góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.

5. Tư lệnh, Chính ủy (phó Tư lệnh Chính trị) QK qua các thời kỳ
a) Tư lệnh QK7 (Phân Liên khu miền Đông, Ban QS miền Đông Nam bộ)
- Nguyễn Bình (1945-1948)
- Huỳnh Văn Nghệ (1948-1949)
- Trần Văn Trà (1950-1951), (1951-1954), (1976-1978)
- Nguyễn Hữu Xuyến (1958-1961), (1961-1963)
- Nguyễn Văn Bứa (1963-1967), (1972-1974)
- Lương Văn Nho (1968-1971)
- Lê Văn Ngọc (1974-1975)
- Lê Đức Anh (1978-1979)
- Đồng Văn Cống (1979-1982)
- Nguyễn Minh Châu (1982-1987)
- Nguyễn Thới Bưng (1988-1989)
- Bùi Thanh Vân (1989-1994)
- Đỗ Quang Hưng (1994-1995)
- Lê Văn Dũng (1995-1997)
- Phan Trung Kiên (1998-2002)
- Nguyễn Văn Chia (2003-2004)
- Lê Mạnh (2005-2009)
- Triệu Xuân Hòa (2009- 2011)
- Trần Đơn (2011-nay)

b) Tư lệnh QK Sài Gòn-Chợ Lớn, Sài Gòn-Gia Định:
- Tô Ký (1948-1949)
- Trần Văn Trà (1949-1950)
- Nguyễn Văn Thi (1050-1951)
- Trần Hải Phụng (1961-1965), (1972-1974)
- Trần Đình Xu (1965-1967)
- Trần Văn Phú (1974-1975) (tức Trần Mân)

c) Chính ủy, Phó Tư lệnh Chính trị Quân khu 7 (Phân Liên khu miền Đông, Ban QS miền Đông Nam bộ)
- Trần Xuân Độ (1945-1946)
- Nguyễn Văn Trí (1946-1949)
- Phan Trọng Tuệ (1949-1950)
- Trần Văn Trà (1950-1951), (1976-1978)
- Phạm Hùng (1951-1954)
- Mai Chí Thọ (1958-1960)
- Nguyễn Việt Hồng (1961-1964)
- Nguyễn Ngọc Tân (1964-1967)
- Huỳnh Chí Mạnh
- Lê Đình Nhơn (1968-1971)
- Trần Nam Trung (1972-1974)
- Dương Cự Tẩm (1974-1975), (1980-1987)
- Lê Đức Anh (1978-1979)
- Nguyễn Xuân Hòa (1987-1993)
- Lê Thành Tâm (1993-2004)
- Nguyễn Thành Cung (2004-2010)
- Phạm Văn Dỹ (2010-nay)

d) Chính ủy QK Sài Gòn-Chợ Lớn, Sài Gòn-Gia Định:
- Phan Trọng Tuệ (1948-1949)
- Trần Văn Trà (1949-1950)
- Nguyễn Văn Linh (1950-1954), (1966-1967)
- Nguyễn Hồng Đào (1961-1962)
- Võ Văn Kiệt (1962-1965)
- Nguyễn Văn Bảo (1965-1966)
- Mai Chí Thọ (1972-1973)
- Lê Thanh (1973-1974)
- Mai Văn Chút (1974-1975)

Câu 2: Những nét tiêu biểu truyền thống vẻ vang của lực lượng vũ trang Quân khu 7?
1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào.
2. Quyết chiến, quyết thắng, chủ động khắc phục khó khăn, dũng cảm sáng tạo trong chiến đấu và xây dựng, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
3. Luôn “đứng mũi chịu sào”, chịu đựng muôn vàn hy sinh, gian khổ trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
4. Đoàn kết nội bộ, gắn bó máu thịt với nhân dân.
5. Đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí tình.
* Những nét tiêu biểu trên được thể hiện tập trung trong 16 chữ: “Trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng” của LLVTQK và nằm trong truyền thống chung của quân đội ta mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
[
Câu 3: Những địa danh lịch sử cách mạng nổi tiếng trên địa bàn Quân khu 7?
1. TP.Hồ Chí Minh
- Hội trường Thống Nhất.
- Đền Bến Dược Củ Chi.
- Địa đạo Củ Chi.
- Bến Nhà Rồng.
- Mười Tám Thôn Vườn Trầu.
- Ngã Ba Giồng.
- Láng Le - Bàu  Cò.
- Chiến khu rừng Sác.
- Chiến khu An Phú Đông.
- Địa đạo Phú Thọ Hòa.
2. Tây Ninh
- Căn Cứ Trung ương Cục Miền Nam.
- Địa đạo An Thới.
- Địa đạo Lợi Thuận.
- Khu di tích chiến thắng Tua Hai.
- Khu di tích Bời Lời.
- Khu di tích Dương Minh Châu.
- Khu di tích Xứ Ủy Nam Bộ.
- Khu di tích Ban An Ninh Trung ương Cục miền Nam.
- Khu di tích Mặt trận DTGPMN Việt Nam.
- Khu di tích Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
- Khu di tích Ban Tuyên Huấn Trung ương Cục miền Nam.
- Khu di tích Ban tổ chức Trung ương Cục miền Nam.
3. Bình Thuận
- Chiến khu Lê Hồng Phong.
- Khu di tích trường Dục Thanh.
4. Đồng Nai
- Chiến khu D.
- Khu di tích căn cứ  Khu ủy miền Đông.
- Địa đạo Nhơn Trạch.
- Địa đạo Suối Linh.
- Căn cứ tỉnh ủy Biên Hòa (Long Thành- Trảng Bom).
- Đình Phú Mỹ (xã Phú Hội- Nhơn Trạch).
- Tòa Bố Biên Hòa ( trụ sở Uy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai).
5. Bà Rịa- Vũng Tàu
- Khu căn cứ  Minh Đạm.
- Nhà tù Côn Đảo.
- Nghĩa trang liệt sĩ Hàng Dương.
- Di tích Cách mạng Nhà Tròn.
6. Bình Phước
- Khu  căn cứ  Tà Thiết ( Bộ chỉ huy Miền).
- Căn cứ Phú Riềng (huyện Phước Long) còn gọi là “Phú Riềng Đỏ” là nơi ra đời chi bộ Đảng Cộng Sản đầu tiên vùng Đông Nam Bộ.
7. Bình Dương
- Chùa Hữu Khánh.
- Nhà tù Phú Lợi.
- Đình Phú Long.
- Địa đạo Bến Cát.
8. Long An
- Vàm Nhật Tảo huyện Tân Trụ.
- Đám Lá Tối Trời huyện Tân Trụ.
- Đồn Rạch Cát huyện Cần Đước.
- Ngã tư Rạch Kiến huyện Cần Đước.
- Ngã tư Đức Hòa huyện Đức Hòa.
9. Lâm Đồng
- Khách sạn Palace.
- Căn cứ kháng chiến Khu VI - Cát Tiên.
- Di tích Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt.
Câu 4: Những trận đánh, chiến dịch tiêu biểu của quân và dân Quân khu 7 trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược?
Trận La Ngà
Đây là trận đánh giao thông lớn nhất min Đông Nam bộ trong thi k kháng chiến chng Pháp do lc lượng vũ trang Chi đội 10 Biên Hoà phi hp vi Liên quân 17 do (b đội Khu 7) thc hin. Chi đội 10 lúc by gi do Hunh Văn Nghệ làm chi đội trưởng (đồng thi là Khu b phó khu 7), ông Nguyễn Văn Lung – chi đội phó – trc tiếp ch huy trn đánh.
Ngày 01 tháng 3 năm 1948, sau một thi gian dài chun b, Chi đội 10 phc kích tn công đoàn xe quân sự Pháp t Sài Gòn đi Đà Lạt trên l 20. Tuyến phc kích tri dài trên 9 km t cây s 104 đến 113 nay thuc địa bàn Định Quán. Đây là đoạn đường ri nha bng phng nhưng uốn lượn quanh co khúc khuu, có nhiu đoạn dc kéo dài. Hai bên đường là rng già, có ch mt bên là vc sâu, có độ dc cao.
Lực lượng vũ trang cách mng tp kết quân và b trí phc kích trên ba mt trn vi tên gi: A, B, C nhm khóa đuôi, chăn viện và đánh thẳng vào đoàn xe quân sự địch. Trên các mt trn được b trí địa lôi.
Vào khoảng  15 gi 12 phút, chiếc thiết giáp dn đầu đoàn xe địch lt vào trn địa phc kích. Quân cách mng tn công. Ba trái địa lôi và viên đạn chng tăng gần như nổ cùng mt lúc to nên mt ct la khói bao trùm mc tiêu. Chiếc thiết giáp b đẩy ht lên nm chn ngang đường ri bc cháy. Tên ch huy đoàn xe cùng bộ phn thông tin chết ti ch. Hai chiếc xe ch lính h tng đi tiếp sau đâm sầm vào xác chiếc xe trước bt la cháy luôn. Quân cách mng dùng ha lc tiêu dit đám lính sống sót và vn động xung phong tn công trc din đoàn xe địch trên l.
Số xe địch đi sau lọt hn vào trn địa và tiếp tc tiến lên, không hay biết v b phn đi đầu đã bị tiêu dit. Khp c hai mt trn B và C, quân ta tp trung ha lc vào nhng xe quân s, chiến đấu quyết lit vi địch và nhanh chóng làm ch trn địa. 16 gi trận đánh kết thúc, 59 xe địch b tiêu dit hoàn toàn, 150 lính lê dương đi hộ tng, 25 sĩ quan Pháp, trong đó có đại tá De Sérigné (Đờ-xê-ri-nhê) - ch huy l đoàn lê dương thứ 13 và đại tá Patruit (Pa-tơ-rút) - phó tham mưu trưởng th nht quân vin chinh Pháp ở Đông Dương bị thit mng, trung úy Joeffrey (Dép-phây) - ch huy đội h tng b bt sng.
Cùng với b đội Chi đội 10 và liên quân 17, lc lượng vũ trang địa phương tham gia trận đánh rút về căn cứ an toàn. Chiến thng La Ngà gây mt tiếng vang lớn trong c nước ta, làm chn động dư luận nước Pháp. Đây là một chiến thng quân s ln nht t đầu cuc kháng chiến đến lúc by gi ca lc lượng vũ trang Biên Hòa nói riêng, lc lượng vũ trang Min Đông Nam bộ nói chung. Trn đánh giao thông La Ngà đánh dấu bước tiến vượt bc v kh năng phối hp, t chc, trình độ chiến thut, k thut ca lc lượng vũ trang tnh Biên Hoà. Các đơn vị tham gia trn đánh được vinh d nhn Huân chương Quân công hạng II do Bác H trao tng.
Chiến dch Bình Giã
Chiến dch Bình Giã được chia làm hai đợt: Đợt 1 t ngày 2 đến ngày 17/12/1964; Đợt 2 t ngày 27/12/1964 đến ngày 3/1/1965. Lc lượng tham gia chiến dch ca ta gm 2 trung đoàn bộ binh (761 và 762); Đoàn pháo binh 563 của Min (Tiu đoàn 35 súng cối 81mm và ĐKZ 75mm, Tiểu đoàn sơn pháo 75mm, Tiểu đoàn 41 súng máy phòng không 12,7mm); 2 tiểu đoàn bộ đội tp trung (800 và 500) ca Quân khu 7; Tiu đoàn 186 bộ đội tp trung ca Quân khu 6, Đại đội 445 và mt s trung đội ca các huyn thuc tnh Bà Ra.
Kết qu, ta đã loại khi chiến đấu trên 1.700 (có hàng chc c vn Mỹ), bắt gn 300 địch, trong đó diệt gn Tiu đoàn thuỷ quân lc chiến 4, Tiu đoàn biệt động quân 33 và mt chi đoàn xe cơ giới M113 (thuc Thiết đoàn 1), đánh thiệt hi 3 tiu đoàn khác và nhiều đại đội, bn rơi, phá hỏng 56 máy bay, (ch yếu là máy bay trc thăng), phá huỷ 45 xe quân s (phn ln là xe M113, trong đó có 2 xe tăng M41), thu hơn 1.000 súng các loại và gn 100 máy thông tin.
Chiến dch Đồng Xoài
Vào tháng 5/1965, Trung ương Cục, Quân y Min quyết định m chiến dch Đồng Xoài vi quy mô cp tương đương sư đoàn tăng cường, nhm tiêu dit mt b phn sinh lc tinh nhu ca địch, h tr nhân dân đẩy mnh chiến tranh du kích, ni dy phá p chiến lược, m rng vùng gii phóng trên địa bàn các tnh Phước Long, Bình Long và phía Bc tnh Bình Dương; phối hp trên địa bàn bn tnh Lâm Đồng, Bình Tuy, Long Khánh, Biên Hòa.
Tham gia chiến dch Đồng Xoài, ta huy động 3 trung đoàn bộ binh (271, 272, 273), và tiu đoàn 840 cùng lực lượng vũ trang địa phương có nhiệm v m màn chiến dch. Hướng phi hp các tnh Lâm Đồng, Bình Tuy, Long An, Biên Hòa, Bà Ra, ti đây ta sử dng 1 trung đoàn (thiếu 1 tiu đoàn) và 1 tiểu đoàn của Quân khu 6, có nhim v đánh phá giao thông, phân tán lực lượng địch.
Chiến dch Đồng Xoài din ra t ngày 10/5 đến ngày 22/7/1965, được chia làm 3 đợt. Sau hơn 2 tháng chiến đấu oanh lit, quân ta đã tiêu diệt 4 tiu đoàn (d7 dù, d1, d2/e7, d4/e1), 24 đại đội, 6 chi đội cơ giới, 4 phân đội k thut, loi khi vòng chiến đấu 4.459 tên, thu 1.652 súng các loi, phá 390 súng và 60 xe cơ giới, bn rơi 34 máy bay các loại, phá 76 p chiến lược, gii phóng 56 ngàn dân, t chc được 180 du kích, vn động được 350 thanh niên tòng quân, góp phn thúc đẩy chiến tranh du kích ti địa bàn lên một bước mi.
Chiến dch Đồng Xoài đã cho thấy bước phát trin cao hơn chiến dch Bình Giã, b đội ch lc Min đã có nhiều tiến b trong đánh tiêu diệt, đánh công kiên. Trình độ t chc và điều hành chiến dch ca đội ngũ cán b đã có tiến b rõ rt, ta đã tiêu diệt được mt b phn sinh lực trong đó có các đơn vị tinh nhu (tiu đoàn 7 và 4). Trình độ hip đồng trong tác chiến vn động đã có tiến b nht là ln đầu tiên ta đã đánh công kiên giành thắng li.
Chiến dch Đồng Xoài là s phát trin ca ngh thut chiến dch tiến công, trong đó phải k đến ngh thut m màn và câu vin. Trong chiến dch này, ta đã khéo kéo kết hp gia đánh điểm và dit vin, gia đánh địch trong công s vi dit địch ngoài công s. Vai trò đánh điểm đã thể hin c hai chc năng: Vừa câu vin va dit sinh lc địch trong công s vng chc.
Đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn xiti của quân Mỹ
Tháng 1/1967, với lực lượng 3 lữ đoàn Mỹ cùng 3 chiến đoàn Ngụy và cuộc hành quân quy mô lớn nhất, dài ngày nhất mang tên Gian-xơn Xi-ti (Junction City), tập trung lực lượng đánh vào vùng Bắc Tây Ninh, sát biên giới Việt Nam-Campuchia. Lực lượng bao gồm: 31 tiểu đoàn bộ binh thuộc các Sư đoàn 1, 25, 4, 9 và các Lữ đoàn 196, 173 của Mỹ, 1 lữ đoàn thủy quân lục chiến, 1 liên đoàn biệt động quân Quân đội Sài Gòn; 1 trung đoàn và 8 tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp, 4 trung đoàn pháo binh (tổng số khoảng 45.000 quân) với sự yểm trợ của 17 phi đoàn không quân các loại...
Chiến dịch diễn ra bắt đầu từ ngày 22/2, kết thúc vào ngày 15/4/1967 và chia làm 2 đợt. Kết quả, ta đã bẻ gãy cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti của Mỹ. Toàn bộ các mục tiêu mà quân địch đề ra đều không thực hiện được.
Ngược lại, ta loại khỏi vòng chiến đấu 14.233 quân địch (chủ yếu là quân Mỹ), phá huỷ, phá hỏng 992 xe (có 775 xe tăng và xe thiết giáp), 112 khẩu pháo từ 105mm trở lên, bắn rơi và bắn hỏng 160 máy bay (có 144 trực thăng), tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng nhiều đơn vị tinh nhuệ của Mỹ. Đây là thất bại lớn nhất của Mỹ tính đến thời điểm đó.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nhận xét: "Cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti là một cuộc hành quân lớn nhất của quân Mỹ vào vùng căn cứ Bắc Tây Ninh lại là cuộc hành quân thua đau nhất, là cái mốc đánh dấu đỉnh cao sự thất bại của chúng trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai trong âm mưu tìm diệt của chúng".

Câu 5: Viết cảm tưởng, hoặc kỷ niệm sâu sắc của bản thân, gia đình về người chiến sỹ Quân khu 7, về mối quan hệ đoàn kết gắn bó giữa LLVT Quân khu 7 với nhân dân và trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay? (không quá 1.000 từ)?

Bài viết cn đạt được mt s ý chính sau:
1. Cảm tưởng v hình nh người chiến sĩ Quân khu 7
- Người chiến sĩ Quân khu 7 luôn kế thừa, phát huy bn cht truyn thng cao đẹp ca "B đội C Hồ" trên các lĩnh vc chiến đấu, công tác, trong các mi quan h, trong thc hin nhim v quc tế...
- Qua các kỷ nim hoc các cm nghĩ đó làm ngời sáng lên phm cht Người chiến sĩ Quân khu 7, phẩm chất "B đội C Hồ".
- Nâng cao lòng t hào v truyn thng LLVT Quân khu 7, phm cht cao đẹp ca “B đội C H”, c vũ động viên mọi người hăng hái thi đua góp phần xây dng đất nước, quê hương, xây dựng quân đội, LLVT Quân khu, đơn vị...
- Làm cho các tầng lp nhân dân, đặc bit là thế h tr thêm tin tưởng yêu mến, nêu cao tinh thn trách nhim trong vic tham gia gi gìn và phát huy truyền thng ca Người chiến sĩ Quân khu 7, phẩm chất cao đẹp "B đội C Hồ" trong thi k mi.
2. Trách nhiệm ca bn thân trong s nghip xây dựng, bo v T quc Vit Nam XHCN:
- Khẳng định lòng t hào v truyn thng đấu tranh chng gic ngoi xâm trong lch s ca dân tc, quân đội ta, của quân và dân Miền Đông Bộ, Cực Nam Trung Bộ.
- Thế h tr ngày nay thêm tin tưởng, yêu mến, nêu cao tinh thn trách nhim trong vic tham gia gi gìn và bo v T quc trong thi k mi.
- Bối cnh và xu thế phát trin ca thế gii hin nay, mi quan h gia Vit Nam và các nước trên thế gii có những diễn biến phc tp và khó lường.
- Những yêu cu mi trong sự nghiệp xây dựng và bo v T quc Việt Nam XHCN hin nay, đòi hỏi thế h tr phi:
+ Về nhn thc:
+ Về hành động:
- Liên hệ đến công vic hin ti đang làm góp phần gì trong công cuc xây dựng và bo v T quc Việt Nam XHCN.


Ghi chú : Các nội dung trên đây chỉ có tính chất gợi ý tham khảo. Vì vậy, quá trình tổ chức đề nghị Ban tổ chức, Ban giám khảo cuộc thi các cấp tiếp tục sưu tầm, hướng dẫn để cuộc thi bảo đảm chất lượng.


Bài dự thi của Thượng tá Bs Trịnh Ngọc Chí, 
dày 294 trang A3, 
nặng 10,6kg, 
có phát nhạc khi mở bài dự thi để đọc

Đây là bài dự thi 'nặng ký' đúng nghĩa với Ban Giám khảo