CÂU HỎI
THI VIẾT TÌM HIỂU
“70 NĂM LỊCH SỬ VẺ VANG QUÂN KHU 7”
1.
Hình thức: Bài dự thi được viết tay (hoặc đánh máy) bằng tiếng việt, đóng thành
quyển.
2.
Nội dung thi: Gồm 5 câu hỏi như sau:
Câu 1. Quân khu 7 được thành lập ngày, tháng, năm nào? Ở đâu? Chỉ thị nào
của Trung ương Đảng, Nghị quyết nào của Xứ ủy Nam Bộ quyết định đến công cuộc
xây dựng LLVT ở miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ phát triển đúng hướng và vững
chắc? Quá trình hình thành, phát triển của Quân khu 70 năm qua? Tư lệnh, Chính ủy?
(Phó Tư lệnh về chính trị) Quân khu qua các thời kỳ?
Câu 2. Những nét tiêu biểu truyền thống vẻ vang của LLVTQK7?
Câu 3. Những địa danh lịch sử cách mạng nổi tiếng trên địa bàn QK7?
Câu 4. Những trận đánh, chiến dịch tiêu biểu của quân và dân Quân khu 7
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược?
Câu 5. Viết cảm tưởng hoặc kỷ niệm sâu sắc của bản thân, gia đình về người
chiến sĩ Quân khu 7, về mối quan hệ đoàn kết gắn bó giữa LLVT Quân khu 7 với
nhân dân và trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay? (không quá 1000 từ)
(Riêng câu 5 viết không quá 1.000 từ,
tương đương 3 trang A4 viết tay hoặc đánh máy tính cỡ chữ 14 Times New Roman)
|
*******************************************************************************
ĐỀ
CƯƠNG
Gợi ý một số nội dung thi tìm
hiểu “70 năm lịch sử vẻ
vang Quân khu 7”
Trên cơ sở những tư liệu trong cuốn lịch sử LLVT Quân khu 7 (1945-2010)
và những tài liệu, văn bản khác. Căn cứ vào câu hỏi cuộc thi tìm hiểu “70 năm lịch sử vẻ
vang Quân khu 7”, phần trả lời các câu hỏi như sau:
Câu 1: Quân khu 7 được thành lập ngày, tháng, năm
nào? Ở đâu? Chỉ thị nào của Trung ương Đảng, Nghị quyết nào của Xứ ủy Nam Bộ
quyết định đến công cuộc xây dựng LLVT ở miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ
phát triển đúng hướng và vững chắc? Quá trình hình thành, phát triển của Quân
khu 70 năm qua? Tư lệnh, Chính ủy (Phó Tư lệnh về Chính trị) Quân khu qua các
thời kỳ?
1. Ngày thành lập
Quân khu 7 được thành lập ngày 10/12/1945.
2. Nơi thành lập
Xã Bình Hòa Nam ,
huyện Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn (nay là xã Bình Hòa Nam , huyện Đức Huệ, tỉnh Long An).
3. Chỉ thị của nào của Trung ương Đảng, Nghị quyết nào
của Xứ ủy Nam Bộ quyết định đến công cuộc xây dựng LLVT ở miền Đông Nam Bộ và
cực Nam Trung Bộ phát triển đúng hướng và vững chắc?
Sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công, trên địa bàn miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, các
đơn vị vũ trang tập trung lần lượt ra đời. Đó là những đơn vị vũ trang do đảng
viên cộng sản hoặc cán bộ cách mạng cốt cán đứng ra tập hợp, chỉ huy, gọi là bộ
đội. Tên người chỉ huy được lấy để gọi tên đơn vị; điển hình như: bộ đội Cao
Đức Luốc, Huỳnh Tấn Chùa, Tô Ký, Nguyễn Văn Thược, Huỳnh Văn Một, Thái Văn
Lung, Đào Sơn Tây, Dương Văn Dương... (Sài Gòn); Huỳnh Văn Nghệ (Biên Hòa),
Huỳnh Kim Trương (Thủ Dầu Một), Trần Văn Đẩu (Tây Ninh), Lê Văn Tưởng (Tân An),
Đoàn Tử Bảy (Bình Thuận), Nguyễn Chí Điềm (Lâm Viên, Đồng Nai Thượng)... Tại
một số huyện, chính quyền cách mạng xây dựng đơn vị bộ đội riêng cho huyện
mình.
Bên cạnh những đơn vị
vũ trang tập trung nêu trên, tại Sài Gòn, Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ
tiếp nhận một đơn vị vũ trang vốn là Bảo an binh cũ có bổ sung thêm công nhân,
thanh niên học sinh và một số đảng viên cộng sản vào làm nòng cốt, gọi là Cộng
hòa vệ binh, tổ chức thành Đệ nhất sư đoàn. Tổ chức Cộng hòa vệ binh còn được
xây dựng ở một số tỉnh, lực lượng có từ một, hai đại đội đến một tiểu đoàn.
Thành phần trong các đơn vị vũ trang tập trung đại bộ phận là nông dân, công
nhân, lao động thành thị, thanh niên học sinh, nhân sĩ trí thức; được trang bị
ngoài một ít súng trường cũ của Pháp, Anh, Nhật, súng lục và lựu đạn, còn lại
chủ yếu là giáo mác, gậy tầm vông vạt nhọn.
Trước hành động xâm lược
của giặc Pháp, với lòng yêu nước tha thiết và trong khí thế hừng hực cách mạng
sau ngày Tổng khởi nghĩa, chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng vũ trang của
ta đã phát triển hết sức nhanh chóng. Tuy nhiên, thành phần hợp thành các đơn
vị vũ trang khá phức tạp, hầu hết chưa có kinh nghiệm chiến đấu và thiếu trang
bị, từng đơn vị hoạt động chiến đấu độc lập, thiếu chỉ huy chung, thậm chí một
số đơn vị nằm ngoài sự lãnh đạo, quản lý của tổ chức Đảng và chính quyền cách
mạng địa phương. Tình hình đặt ra cần có một chủ trương đúng đắn nhằm thống
nhất, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của cuộc
kháng chiến.
* Hội nghị Cán bộ Đảng Nam Bộ (25-10-1945)
Kịp thời chỉ đạo cuộc
kháng chiến đang ngày càng lan rộng, đặc biệt là thống nhất và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, ngày 25-10-1945, Xứ ủy Nam Bộ tổ
chức tiến hành Hội nghị Cán bộ Đảng ở Thiên Hộ, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Dự
Hội nghị có các đồng chí Hoàng Quốc Việt, ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, Lê
Duẩn, Tôn Đức Thắng và một số đồng chí khác vừa từ Nhà ngục Côn Đảo trở về; có
các thành viên trong Xứ ủy và đại biểu Đảng bộ các tỉnh, thành Nam Bộ.
Hội nghị phân tích
tình hình, kiểm điểm, rút kinh nghiệm công tác chỉ đạo kháng chiến từ Hội nghị
Cây Mai, Chợ Lớn (23-9-1945). Hội nghị biểu dương tinh thần chiến đấu ngoan
cường và thành tích chiến đấu anh dũng của quân và dân Nam Bộ. Hội nghị cũng
chỉ rõ những sai lầm, thiếu sót trong việc xây dựng và tổ chức lực lượng vũ
trang cách mạng sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Hội nghị đề ra nhiều
biện pháp cấp thiết để củng cố và xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ
trang, đặt lực lượng vũ trang dưới sự lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối của Đảng;
phát triển chiến tranh du kích thực hiện tiêu thổ kháng chiến; làm vườn không
nhà trống, vận động quần chúng bất hợp tác với địch.
Hội nghị nhất trí bầu
đồng chí Tôn Đức Thắng làm Bí thư Xứ ủy. Đồng chí Tôn Đức Thắng không nhận mà
đề cử đồng chí Lê Duẩn đảm nhận trách nhiệm này. Hội nghị nhất trí và phân công
đồng chí Tôn Đức Thắng phụ trách ủy ban Kháng chiến và chỉ đạo lực lượng vũ
trang.
* Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (25-11-1945)
Ngày 25-11-1945, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị về Kháng chiến kiến
quốc. Dựa trên những nhận định về tình hình khách quan và chủ quan về tình hình
ta, địch, Chỉ thị chỉ rõ: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách
mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành
vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập". Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên
hết", "Tổ quốc trên hết". Chỉ thị xác định, kẻ thù chính của
nhân dân Đông Dương lúc này là "thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung
ngọn lửa đấu tranh vào chúng", đề ra nhiệm vụ cần kíp của nhân dân Đông
Dương đối với cách mạng thế giới. Đối với cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ riêng,
cần kíp là củng cố chính quyền; chống thực dân Pháp xâm lược; bài trừ nội phản;
cải thiện đời sống nhân dân”.
Chỉ thị đã đề ra những
nhiệm vụ cho từng mặt công tác, trong đó về quân sự, Chỉ thị xác định: Động
viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài,
dùng lối đánh du kích với phương pháp bất hợp tác triệt để.
Chỉ thị nhấn mạnh:
muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên "Đảng và Mặt trận Việt Minh phải
được củng cố và phát triển. Đảng phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật và nửa
công khai của Đảng, tuyển thêm đảng viên; giữ vững sinh hoạt của Đảng; thành
lập Đảng đoàn trong các cơ quan hành chính và các đoàn thể quần chúng; xây dựng
hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội;
Tóm
lại: Nghị quyết của Hội nghị Cán bộ Đảng Nam Bộ
(25-10-1945) và Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương (25-11-1945) có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc
xây dựng LLVT ở Nam Bộ nói chung. Nó tạo điều kiện cho LLVT ở miền Đông Nam Bộ
và cực Nam Trung Bộ phát triển một cách đúng hướng và vững chắc. Đó là LLVT
cách mạng, do Đảng ta sáng lập và lãnh đạo, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà
chiến đấu.
4. Quá
trình hình thành, phát triển 70 năm qua của QK7
Ngày
23/09/1945 , thực
dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài gòn, chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược
nước ta lần thứ 2. Quân và dân Nam bộ, trước hết là quân và dân Sài Gòn-Chợ
Lớn-Gia Định đã thay mặt cả nước đứng lên chiến đấu, cuộc chiến lan rộng ra
khắp miền Đông và sau đó là miền Tây Nam bộ.
Để có sự thống nhất trong
chỉ huy, chỉ đạo ngày 10/12/1945 tại Hội nghị quân sự Nam bộ do Xứ ủy tổ chức (họp
ở xã Bình Hoà Nam - huyện Đức Hòa tỉnh Chợ Lớn nay thuộc tỉnh Long An) đã ra quyết định
thành lập Khu 7 - một tổ chức quân sự hành chính do các đồng chí Nguyễn Bình
làm Khu bộ trưởng, Trần Xuân Độ làm Chủ nhiệm Chính trị bộ (1).
Địa bàn Khu 7 khi
thành lập bao gồm phần đất Nam bộ ở phía
Đông sông Vàm cỏ Đông, gồm các tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh,
Gia Định, Chợ Lớn và TP Sài Gòn. Đến tháng 12/1948 có quyết định thành lập khu
Sài Gòn trực thuộc Bộ Tư lệnh Nam bộ thì khu 7 chỉ còn lại các tỉnh Biên Hòa,
Bà Rịa-Thủ Dầu Một, Tây Ninh, đến tháng 5/1950 khu 7 và khu Sài Gòn-Chợ Lớn sát
nhập lại như cũ.
Tháng 6/1951, tổ chức
chiến trường Nam
bộ có sự thay đổi lớn. Chiến trường Nam bộ được chia thành 2 phân liên
khu và 1 đặc khu. Đó là Phân liên khu miền Đông, Phân liên khu miền Tây (lấy
sông Tiền làm ranh giới) và đặc khu Sài Gòn.
(Lâm Đồng,
Bình Thuận trong kháng chiến chống Pháp thuộc khu 5).
Phân
liên khu miền Đông gồm các tỉnh: Thủ Biên (do Thủ Dầu Một và Biên Hòa sát nhập),
Gia Định Ninh (do Gia Định và Tây Ninh sát nhập)
Bà Chợ (do Bà Rịa
và Chợ Lớn sát nhập), Mỹ Tho (gồm
Mỹ Tho, Gò Công và Tân An sát nhập). Long Châu
Sa (do phần
Long Xuyên, phần Châu Đốc phía Đông sông Tiền và Sa Đéc sát nhập).
Toàn Nam
bộ 20 tỉnh, lúc đó sát nhập còn 10 tỉnh.
Sau Hiệp định Giơnevơ
7/1954, chấp hành chỉ thị của trên, phần lớn các đơn vị bộ đội tập trung ở miền
Đông, tập kết chuyển quân ra Bắc. Số cán bộ còn lại tiếp tục chuẩn bị lực lượng
đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Hai phân liên
khu miền Đông và miền Tây được lệnh giải thể chỉ còn giữ lại đặc khu Sài Gòn
hoạt động bí mật.
Trong kháng chiến
chống Mỹ, miền Đông Nam
bộ và cực Nam Trung bộ thuộc chiến trường B2. Chiến trường B2 gồm Nam bộ, một phần cực Nam Trung bộ và
Tây Nguyên (Gia Nghĩa, Lâm Đồng, Ninh Thuận
và Đắc Lắc ngày nay).
B2 bấy giờ chia thành 4 khu: khu 6 (gồm
phần cực Nam
Trung bộ), khu
7, khu 8, khu 9.
Riêng ở địa bàn miền
Đông Nam bộ từ tháng 5 năm 1961 có 2 Quân khu: Quân khu 7 (mật
danh T1, hay T7; gồm các tỉnh: Phước Ty, Long Khánh, Phước Long, Bình Long,
Bình Dương, Tây Ninh, Biên Hòa, Bà Rịa) và Quân khu Sài Gòn-Gia Định (mật
danh T4 hay l4).
Đến
tháng 10 năm 1967, để tổ chức lại chiến trường chuẩn bị cho đợt tổng công kích
Mậu Thân 1968 trên quyết định giải thể khu 7 và Quân khu Sài Gòn-Gia Định, tổ
chức khu trọng điểm với trung tâm là Sài Gòn, chia địa bàn miền Đông (lúc này có thêm tỉnh Long An)
ra làm 6 phân khu, trong đó có 5 phân khu trong và ven đô, hình thành các mũi
tiến công vào Sài Gòn. Phân khu I (Bắc-Tây
Bắc), phân khu 2 (Tây-Tây Nam ),
Phân khu 3 (Tây Nam ) phân khu 4 (Đông Nam ),
phân khu 5 (Đông-Đông
Bắc), phân khu 6 (Phân
khu Trung tâm) và tổ chức 2 Bộ Tư lệnh (Bộ Tư lệnh tiền phương Bắc và Bộ tư lệnh tiền phương Nam ).
Đến thời kỳ chống
"Việt Nam hóa chiến tranh"
của Mỹ, năm phân khu (1, 2, 3, 4, 5) sát nhập còn 4 phân
khu (phân khu 2 và 3 sát nhập thành
phân khu 23)
và phân khu nội đô (Trung tâm). Đến 19/08/1972, do
vị trí của chiến trường miền Đông Nam bộ là chiến trường quan trọng nên trên quyết định thành lập lại Quân khu 7
và Quân khu Sài Gòn-Gia Định. Quân khu 7 lúc này gồm các tỉnh: Biên Hòa, Bà
Rịa, Long Khánh, Phước Bình, (Phước Long-Bình Long) Tây Ninh, Bình Dương,
Long An.
Sau ngày toàn thắng,
theo quyết định của Quân ủy Trung ương (02/07/1976). Bộ chỉ huy Miền (B2) được giải thể, các
Quân khu 5,7,9 được thành lập, chiến trường miền Đông chính là Quân khu 7 (từ
1976 đến 1998 với 7 tỉnh thành: Đồng
Nai, BR-VT, Long An, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước và TP.HCM). Từ tháng 12/1998 ,
Quân khu 7 có thêm 2 tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng. Hiện
nay Quân khu 7 có 9 tỉnh (thành phố) đó là:
1. Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Long An.
3. Đồng Nai.
4. Tây Ninh.
5. Bà Rịa - Vũng Tàu.
6. Bình Dương.
7. Bình Phước.
8. Bình Thuận.
9. Lâm Đồng.
Thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945
- 1954).
LLVT cách mạng ở miền
Đông Nam
bộ ra đời từ sau CMT8/1945. Cùng với quá trình phát triển của sự nghiệp kháng
chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng và được nhân dân che chở, nuôi dưỡng, LLVT 3
thứ quân ở miền Đông Nam bộ lần lượt hình thành và gắn liền với các phong trào
cách mạng của nhân dân, gắn liền với từng bước đi của lịch sử dân tộc.
Khi thực dân Pháp quay
trở lại xâm lược nước ta, quân và dân miền Đông Nam bộ trước hết là quân và dân
thành phố Sài Gòn đã anh dũng đứng lên kháng chiến. Trong hoàn cảnh khó khăn bỡ
ngỡ của buổi đầu đánh giặc, quân và dân Sài Gòn-Chợ lớn-Gia Định đã vây hãm quân địch trong thành phố, tạo
điều kiện cho nhân dân toàn miền củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng LLVT,
xây dựng căn cứ địa, chuẩn bị tinh thần
và thực lực mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài. Sau gần 15 tháng chiến đấu,
quân và dân miền Đông Nam bộ đã hoàn thành nhiệm vụ "đi trước" mà lịch sử giao phó, góp phần làm xáo trộn kế
hoạch chiến lược “đánh nhanh, thắng
nhanh” của thực dân Pháp, tạo điều kiện về thời gian cho nhân dân cả
nước chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến một cách chủ động.
Từ năm 1947 đến năm
1950, địa bàn miền Đông Nam bộ là một trong những trọng điểm "Bình
Định"
của địch, một trong những hậu phương dự trữ
chiến lược của chúng ở chiến
trường Việt Nam. Quân dân miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ đã tập trung nỗ
lực chống lại chính sách "Bình Định" của địch, chấn chỉnh
và xây dựng LLVT 3 thứ quân, sáng tạo ra nhiều cách đánh độc đáo và có hiệu quả trong chống càn quét, trong
phục kích giao thông, trong tiến công đồn bốt, cứ điểm, tháp canh và tổ chức
chiến dịch lớn. Đây cũng là giai đoạn mà phong trào đấu tranh chính trị ở đô
thị phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Cuộc kháng chiến được đẩy mạnh trên mọi mặt, góp phần đánh bại chính sách "Bình
Định"
của địch.
Giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp,
trong điều kiện bị địch chia cắt, phong tỏa và càn quét liên miên, quân và dân
miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ giữ
vững phong trào, khắc phục những lệnh lạc hữu huynh trong thực hiện phương châm
ba vùng, đấu tranh giành giật sức người, sức của với địch. Đẩy mạnh phong trào đấu tranh du kích, kết
hợp với phong trào đấu tranh đô thị và địch ngụy vận, cầm chân địch tại chỗ,
không ngừng mở rộng căn cứ địa và xây
dựng cuộc sống mới mọi mặt ở vùng giải
phóng, quân dân miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ đã từng bước giành lại thế
chủ động, tạo thế, tạo lực, tích cực góp phần cùng quân và dân cả nước tiến
công địch trong Đông-Xuân 1953-1954, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954- 1975):
Từ sau Hiệp định
Giơnevơ, đế quốc Mỹ từng bước nắm chính quyền thống trị miền Nam Việt Nam, gạt
Pháp và mọi thế lực thân Pháp, xây dựng bọn tay sai ngụy quyền, ngụy quân, thực
hiện chính sách thực dân mới, tiến hành đánh phá quyết liệt cách mạng Miền Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân miền Đông Nam bộ và
cực Nam Trung bộ đã vững bước vào cuộc chiến đấu trong mối tương quan lực lượng
không cân sức, dần dần gầy dựng lực lượng, cùng với đồng bào cả nước thực hiện
cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ của dân tộc.
Ngay những ngày đầu
bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong thế trận rất chênh lệch, nhưng nhân
dân miền Đông và cực Nam Trung bộ vẫn vững tin vào đường lối chủ trương của
Đảng, kiên trì cuộc đấu tranh chính trị đòi địch thi hành hiệp định Giơneve,
đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống "tố
cộng diệt cộng",
chống càn quét, khủng bố, cướp đất, dồn dân. Vừa đấu tranh chính trị, vừa có ý
thức chuẩn bị tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang. Nhất là từ sau khi Ban Quân sự
và Đảng ủy Miền được thành lập (tháng 12/1956), do đồng chí Nguyễn
Hữu Xuyến, ủy viên quân sự Xứ ủy phụ trách thì công tác tích trữ vũ khí, xây dựng lại 2 căn cứ lớn: Dương Minh Châu,
chiến khu D và nhiệm vụ tranh thủ các lực lượng giáo phái càng được đẩy mạnh,
từng bước đưa đấu tranh vũ trang từ tự vệ lên tuyên truyền diệt ác, rồi tác
chiến, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy phá
thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ. Tháng 06/ 1958, Bộ Tư lệnh miền Đông được
thành lập; 15/02/1961
Quân giải phóng miền Nam
công bố thành lập từ sự thống nhất các
đơn vị lực lượng vũ trang cánh mạng. Từ đó phong trào đấu tranh và sức chiến
đấu của lực lượng vũ trang cách mạng càng phát triển mạnh mẽ.
Từ 1957 đến đầu năm
1961, các đơn vị đầu tiên của lực lượng vũ trang miền Đông đã thực hiện một số
trận đánh, đặc biệt trận đánh quận lỵ Dầu Tiếng (ngày
11/08/1958),
sau 30 phút ta tiêu diệt và làm chủ toàn bộ căn cứ 1 tiểu đoàn lính "cộng
hòa",
gây tiếng vang lớn trong toàn miền Đông và cả nước. Lần đầu tiên từ sau 1954,
lực lượng vũ trang miền Đông chiếm được một chi khu quân sự địch. Trận đánh vào
trụ sở cơ quan MAAG của Mỹ đóng tại nhà máy của BIF Biên hòa do đặc công biệt
động Biên Hoà thực hiện (ngày 09/07/1959), là trận đánh Mỹ dầu
tiên trên chiến trường Nam Bộ, diệt 2 tên cố vấn Mỹ, ghi tên đầu tiên trong
danh sách lính Mỹ tử trận ở Việt Nam, gây tiếng vang lớn ở chiến trường. Ngày
26/01/1960, lực lượng vũ trang miền Đông đánh trận Tua 2 (Tây
Ninh)
làm chủ căn cứ một trung đoàn chủ lực ngụy, diệt và làm bị thương, bắt sống
nhiều tên, thu nhiều vũ khí trang bị, mở đầu cho phong trào Đồng khởi ở miền
Đông. Trong cuộc Đồng khởi 1960, quân dân miền Đông và cực Nam Trung bộ đã đánh
sụp ngụy quyền cơ sở, giành quyền làm chủ phần lớn nông thôn (Thủ
Dầu Một giải phóng 25/60 xã, Long An giải phóng 2/3 nông thôn, Kiến Tường phá
banh gần hết khu trù mật dinh điền, Tây Ninh giải phóng 1/3 nông thôn, vùng ven
Sài Gòn kiểm soát hơn 1/2 địa bàn phía Bắc, làm chủ vùng nông thôn Tây, Tây Nam
thành phố...).
Từ 1961 đến giữa 1965,
khi Mỹ-ngụy đổi chiến lược từ chiến tranh đơn phương sang tiến hành "chiến
tranh đặc biệt",
quân dân miền Đông Nam Bộ và cực Nam
Trung bộ vẫn giữ vững và phát triển quyền chủ động tiến công địch, nhanh chóng
chuyển hướng chiến lược từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng, ra
sức xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang ba thứ quân (du
kích xã, bộ đội khu và bộ đội chủ lực Miền). Từ năm 1961 đến năm 1965, trên
chiến trường miền Đông đã có những đơn vị chủ lực cấp tiểu đoàn, trung đoàn.
Trên cơ sở lực lượng phát triển, quân và dân miền Đông và cực Nam Trung bộ đã
vận dụng linh hoạt phương châm hai chân, ba mũi, ba vùng. Kết hợp tiến công với
nổi dậy, tiêu diệt với làm chủ, sáng tạo nhiều hình thức phong phú của chiến
tranh nhân dân, đưa chiến tranh nhân dân phát triển lên trình độ cao, tập trung
phá "ấp chiến lược", từng bước làm phá sản
"quốc sách ấp chiến
lược",
liên tiếp đánh bại các kế hoạch bình định của địch, giải phóng từng mảng nông
thôn rộng lớn ở miền núi và đồng bằng; đồng thời kết hợp đẩy mạnh phong trào đô
thị dẫn đến sự sụp đổ của chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm và sự khủng
hoảng của chế độ tay sai của Mỹ.
Trong giai đoạn chiến
tranh đăc biệt, LLVT miền Đông và cực
Nam Trung bộ đã đánh nhiều trận tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch. Trong đó
tiêu biểu nhất là chiến dịch Bình Giã (từ ngày
02/12/1964 đến 07/01/1965 ). Đây là lần đầu tiên
trên chiến trường B2 ta mở chiến dịch
lớn cấp Sư đoàn.
Bình Giã là trận đánh
lớn thứ hai sau Ấp Bắc, ta đánh bại chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận
của Mỹ. Diệt và làm bị thương 1.755 tên. Lần đầu tiên ta diệt một tiểu đoàn dù
thuộc lực lượng Tổng trù bị của quân ngụy. Chiến dịch Bình Giã là trận đánh
mạnh nhất làm sụp đổ chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Đánh giá về tầm quan trọng
của chiến dịch này, đồng chí Lê Duẩn viết: "Với
trận Ấp Bắc 1963 địch thấy khó thắng ta, sau chiến dịch Bình Giã, địch thấy có
thể thua ta".
Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì khẳng định: "Chiến
dịch Bình Giã đánh dấu sự thất bại về cơ bản của chiến tranh đặc biệt".
Giữa năm 1965 Đế quốc
Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược, tiến hành cuộc "chiến
tranh cục bộ",
ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam. Miền Đông là chiến trường
địch tập trung lực lượng cả Mỹ lẫn ngụy cùng khối lượng vũ khí và phương
tiện chiến tranh lớn nhất.
Chiến trường miền Đông
lúc này đã có 3 Sư đoàn chủ lực Miền (Sư 9, Sư 5, Sư 7). Bộ đội chủ lực Khu 7
phát triển lên 2 trung đoàn, Quân khu Sài Gòn-Gia Định có 5 tiểu đoàn chủ lực,
và đặc khu Rừng Sác được thành lập ngay sát nách Sài Gòn. Với lực lượng đã phát triển mạnh lại được sự chi viện của
cả nước, quân dân miền Đông Nam Bộ và cực
Nam Trung bộ đã chủ động xác định quyết tâm đánh Mỹ, diệt ngụy, vận dụng phương
thức, phương châm tiến hành chiến tranh một cách linh hoạt, có hiệu quả, phát
huy khả năng đia phương trong việc đảm bảo hậu cần tại chỗ, đặt cơ sở cho việc
xây dựng và phát triển mạng lưới hậu cần nhân dân trong chiến tranh, góp phần
lần lượt đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất và lần thứ hai của
địch, thực hành các cuộc tổng tiến công và nổi dậy trong năm 1968, đánh vào các
sào huyệt của địch ở Sài Gòn, giành thắng lợi lớn , góp phần buộc Mỹ phải xuống
thang chiến tranh và chịu đàm phán với ta ở Pari.
Trong giai đoạn cuối
cuộc kháng chiến chống Mỹ từ sau ngày ký Hiệp định Paris (27/01/1973), quân dân miền Đông
Nam bộ và cực Nam Trung bộ đã nhanh chóng khắc phục những lúng túng ban đầu (để
cho địch lấn đất, chiếm dân), kịp thời chuyển sang thế tấn công giành chủ động,
thực hiện nhiều trận đánh đạt hiệu suất cao như trận Bến Tranh ở Dầu Tiếng,
trận đánh kho xăng Nhà Bè (ngày 03/02/1973)… Ngày 20/07/1974 trên
chiến trường miền Đông thành lập Quân đoàn 4 chủ lực Miền và thành lập thêm 2
Sư đoàn 3 và 6. Nhằm tạo thêm thế và lực mới, từ ngày 12/12/1974 đến
06/01/1975, ta quyết định mở chiến dịch đường 14 Phước Long, đồng thời các địa bàn khác như Tánh Linh, Võ
Đắc, Tây Ninh, Bắc Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Sài Gòn cùng tiến công. Kết quả: sau
20 ngày chiến đấu, ta giải phóng đường 14, toàn tỉnh Phước Long, chiếm Đài quan
sát của địch trên đỉnh núi Bà Rá, giải phóng trên 35.000 dân ở Hoài Đức, Tánh
Linh và toàn Quận Tánh Linh.
Ý nghĩa đặc biệt là
lần đầu tiên ở miền Nam ,
ta giải phóng một Tỉnh mà địch không lấy lại được, Mỹ không dám can can thiệp
trở lại. Việc giải phóng Phước Long đã trở thành "Đòn
trinh sát chiến lược", tạo thêm cơ sở để BCT bàn về quyết tâm chiến lược
giải phóng miền Nam
trong năm 1976 hoặc 1975.
Tiếp theo chiến thắng
Phước Long, cùng nhịp với chiến dịch Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ đánh giải
phóng Dầu Tiếng (từ 11–13/03/1975).
Qua chiến thắng Buôn
Ma Thuột-Tây Nguyên và các chiến thắng ở miền Đông Nam Bộ, BCT đã hạ quyết tâm
giải phóng miền Nam
trong năm 1975. Trung ương cực miền Nam đã ra quyết định 15 (ngày
29/03/1975) về tổng công kích, tổng khởi nghĩa thực hiện quyết tâm của BCT.
Ngày 07/04/1975, nhiệm
vụ được quán triệt tại căn cứ Tà Thiết (Tây Lộc
Ninh),
Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh được
thành lập.
Lực lượng tại chỗ được
thống nhất lại (gồm Sư đoàn 2 đặc công Miền, Lữ
316 đặc công biệt động, các lực lượng của Sài Gòn – Gia Định). Riêng đặc công biệt
động có 30 tiểu đoàn. Nhiệm vụ của các lực lượng tại chỗ là đánh chiếm các mục
tiêu then chốt có thể chiếm được, phát động nhân dân nổi dậy làm chủ, tạo mọi
điều kiện tại chỗ để các quân đoàn tiến vào giải phóng Sài Gòn. Nhiệm vụ đặc biệt
là chiếm giữ 14 cây cầu trên các ngả đường tiến về Sài Gòn (chủ
yếu do Lữ 316 đặc công biệt động và trung đoàn đặc công 116 thực hiện).
Thực lực chính trị vũ
trang Sài Gòn – Gia Định trước Chiến dịch Hồ Chí Minh có: Nội thành 700 cán bộ,
ngoại thành có trên 1.000 cán bộ, ngoài ra có 1.300 cán bộ đã tiếp cận nội đô
sẵn sàng vào nội đô để phát động quần chúng nổi dậy. Nội thành và vùng ven có
1.290 đảng viên, có hơn 10.000 quần chúng nòng cốt, 40 lõm chính trị với hơn
7.000 quần chúng cơ sở, 400 tổ chức công khai và bí mật với gần 25.000 người do
ta nắm.
Biệt động: 60 tổ, 301
quần chúng có vũ trang, 30.000 quần chúng sẵn sàng nổi dậy, trên 3.300 du kích,
và trên 300 tự vệ mật.
Các đơn vị tập trung
của LLVT tại chỗ và các đơn vị đặc công biệt động đã đến vùng ven.
Ngay sau khi có lệnh
trong hai ngày 29 và 30/04/1975 quân dân
miền Đông Nam Bộ đã cùng các binh đoàn chủ lực thực hiện cuộc tổng tiến công và
nổi dậy thành công, kết thúc thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Trong
5 cánh quân tiến vào Sài Gòn, có 2 cánh quân thuộc các lực lượng chiến đấu trên
chiến trường Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ đó là Quân đoàn 4 ở hướng Đông và
Đoàn 232 (tương đương
quân đoàn) ở hướng Tây Nam.
Về nổi dậy: Quần chúng
Sài Gòn, Gia Định đã nổi dậy ở 107 khu vực (có 31
khu ngoại thành),
32 khu vực nổi dậy trong ngày 29/04 và rạng sáng 30/04, 34 khu vực nổi dậy
trước khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
Trong chiến dịch Hồ
Chí Minh, riêng quân dân Sài Gòn – Gia Định đã diệt và làm tan rã 31.000 tên
địch, bắt làm tù binh 12.619, chiếm 9 căn cứ
quân sự, 5 chi khu, 21 phân khu và trụ sở tề, thu 12.275 súng và gần như
toàn bộ hồ sơ của địch. Số ngụy quân lần lượt ra trình diện 40 vạn, số công an
và cảnh sát 10 vạn. Việc này đã tạo thuận lợi cho ta giải phóng Sài Gòn nguyên
vẹn và mọi sinh hoạt, trật tự an ninh thành phố đã ổn định ngay sau đó.
Sau 30/04/1975, cán
bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tham gia thực hiện nhiệm vụ quân quản, tổ chức
sắp xếp lại lực lượng và tiến hành thành lập QK7 theo chỉ đạo của Trung ương.
Chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc và làm nhiệm vụ Quốc tế
(1977–1989):
Vừa
ra khỏi cuộc chiến tranh chưa được bao lâu, lực lượng vũ trang Quân khu 7 lại
bắt tay vào cuộc chiến đấu mới: cùng nhân dân
khắc phục hậu quả chiến tranh trên tất cả các lĩnh vực, góp phần xây
dựng và bảo vệ cuộc sống mới.
Ngày 30/04/1977, cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam do bọn phản bội Pôn-pốt tiến hành đã bắt đầu diễn
ra quyết liệt, nhất là từ tháng 09 đến tháng 11/1977. Quân khu 7 vừa tổ chức
lực lượng bảo vệ biên giới, vừa thực hiện nhiệm vụ giữ vững an ninh địa bàn.
Cuối
năm 1978, đầu năm 1979, theo đề nghị của lực lượng cách mạng CPC và thông suốt
chỉ thị của trên, lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã cùng các đơn vị bạn phối hợp
với các lực lượng cách mạng Campuchia tiến hành cuộc phản công truy kích bọn
Pôn-pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.
Lúc này, để đáp ứng
tình hình, theo quyết định của ĐUQSTW, Bộ Tư
Lệnh Quân khu 7 được kiện toàn, do Trung tướng Lê Đức Anh làm Tư lệnh.
Sau khi Campuchia hoàn
toàn giải phóng (ngày 07/01/1979), Quân ủy Trung ương
giao nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang hướng Tây Nam tiếp tục giúp Cách mạng
Campuchia bảo vệ thành quả cách mạng.
Cùng với các Quân khu
5, 9 và 1 bộ phận lực lực luợng chủ lực của Bộ, LLVT Quân khu 7 liên tục 10 năm
giúp Bạn đã làm tốt nhiệm vụ liên minh chiến đấu, giúp nhân dân Campuchia hồi
sinh, từng bước củng cố, xây dựng lực lượng đủ khả năng tự đảm đương nhiệm vụ
của mình. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, tháng 09/1989, các đơn vị thuộc QK7 (MT
479 và 779)
cùng quân tình nguyện Việt Nam
rút toàn bộ về nước.
Nhờ có sự giúp đỡ to
lớn, chí tình của Quân tình nguyện Việt Nam, Bạn có đủ thế và lực để thực hiện
một giải pháp có lợi cho sự ổn định và phát triển của đất nước Campuchia. Từ khi thực hiện tổng
tuyển cử với sự giám sát của Liên hợp quốc (1991) đến nay, tình hình
Campuchia ngày càng ổn định, an ninh biên giới được giữ vững, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự ổn định và phát triển của 2 nước và cho cả khu vực.
Huấn luyện, xây dựng, sẵn sàng chiến đấu góp phần làm
thất bại chiến lược “DBHB”, BLLĐ của kẻ thù, giữ vững an ninh, chính trị trên
địa bàn QK:
Trong bối cảnh quốc tế
sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch ráo riết
đẩy mạnh thực hiện việc xóa bỏ các nước XHCN còn lại bằng chiến lược “DBHB”,
BLLĐ
kết hợp với răn đe tiến công quân sự, trong đó Việt Nam là một trọng điểm.
Thực tế trên địa bàn
Quân khu 7 từ năm 1990 đến nay địch tập trung đánh phá ta bằng nhiều phương
tiện và thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Chỉ tính riêng trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh và các vùng phụ cận đã có hàng chục tổ chức phản động, trong đó tiêu
biểu là hoạt động chống đối của nhóm cấp tiến và đảng “Việt
Nam tân dân chủ”.
Bọn phản động đã dựa
vào một số khuyết điểm và nhược điểm của ta trong việc thực hiện chính sách và
một bộ phận cán bộ thoái hoá biến chất rồi khuếch đại, gây mối nghi ngờ giữa
quần chúng với Đảng, chính quyền và quân đội, làm giảm lòng tin của nhân dân
vào Nhà nước và chế độ. Từ đó mà xuyên tạc CNXH, tuyên truyền cho cái gọi là
tính “ưu việt” của CNTB hiện đại;
cài cắm, xây dựng lực lượng tạo phản, thực hiện các cuộc bạo loạn nhằm lật đổ
chế độ ta. Các thế lực thù địch triệt để sử dụng chiêu bài “tự do, dân chủ, nhân quyền”, các
vấn đề về “dân tộc, tôn giáo”
để tạo ra các điểm nóng, làm chúng ta mất ổn định, tạo cớ can thiệp tiến hành
lật đổ chế độ.
Trước tình hình trên,
nhất là từ sau khi Quân tình nguyện ở Campuchia rút quân về nước, LLVT Quân khu
7 đã kịp thời tăng cường triển khai thực hiện các nhiệm vụ củng cố, xây dựng
lực lượng, thực hành huấn luyện không ngừng nâng cao sức mạnh sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu, cùng các địa phương xây dựng các khu vực phòng thủ và thế
trận quốc phòng toàn dân vững mạnh. LLVT Quân khu đã đoàn kết, phối hợp cùng
các lực lượng Công an nhân dân và nhân dân các địa phương thực hiện các nhiệm
vụ ngăn chặn, giải quyết các điểm nóng, kịp thời phát hiện, truy quét bọn Fun
Rô và các nhen nhóm bạo loạn, làm trong sạch địa bàn, giữ vững an ninh chính
trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, đảm bảo cho công cuộc xây dựng, phát triển
kinh tế – xã hội của các tỉnh, thành vững chắc đi lên. Chưa bao giờ 2 nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc lại gắn bó chặt chẽ như hiện nay. Vì thế
các lực lượng vũ trang QK càng ngày càng gắn bó với nhân dân các địa phương,
phát huy truyền thống và kinh nghiệm trong quá khứ, ra sức xây dựng củng cố nền
quốc phòng toàn dân, trong đó chú trọng xây dựng các tiềm lực chính trị, tinh
thần, tiềm lực kinh tế và quốc phòng ngày càng phát triển vững chắc.
Quân khu và các địa phương đang nỗ lực nâng
cao chất lượng tuyển quân, thực hiện tốt Luật nghĩa vụ quân sự, tăng cường củng
cố, phát triển lực luợng DQTV, quân DBĐV cùng các công tác đảm bảo khác, góp
phần cùng các đơn vị chủ lực của quân xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, đủ sức hoàn thành thắng lợi
mọi nhiệm vụ, đánh bại chiến lược “DBHB”, “BLLĐ” của địch không để bị
bất ngờ góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
5. Tư
lệnh, Chính ủy (phó Tư lệnh Chính trị) QK qua các thời kỳ
a) Tư lệnh QK7 (Phân Liên khu miền Đông, Ban QS miền Đông Nam bộ)
- Nguyễn Bình (1945-1948)
- Huỳnh Văn Nghệ (1948-1949)
- Trần Văn Trà (1950-1951), (1951-1954), (1976-1978)
- Nguyễn Hữu Xuyến (1958-1961), (1961-1963)
- Nguyễn Văn Bứa (1963-1967), (1972-1974)
- Lương Văn Nho (1968-1971)
- Lê Văn Ngọc (1974-1975)
- Lê Đức Anh (1978-1979)
- Đồng Văn Cống (1979-1982)
- Nguyễn Minh Châu (1982-1987)
- Nguyễn Thới Bưng (1988-1989)
- Bùi Thanh Vân (1989-1994)
- Đỗ Quang Hưng (1994-1995)
- Lê Văn Dũng (1995-1997)
- Phan Trung Kiên (1998-2002)
- Nguyễn Văn Chia (2003-2004)
- Lê Mạnh (2005-2009)
- Triệu Xuân Hòa (2009- 2011)
- Trần Đơn (2011-nay)
b) Tư lệnh QK Sài Gòn-Chợ Lớn, Sài Gòn-Gia Định:
- Tô Ký (1948-1949)
- Trần Văn Trà (1949-1950)
- Nguyễn Văn Thi (1050-1951)
- Trần Hải Phụng (1961-1965), (1972-1974)
- Trần Đình Xu (1965-1967)
- Trần Văn Phú (1974-1975) (tức Trần Mân)
c) Chính ủy, Phó Tư lệnh Chính trị Quân khu 7 (Phân Liên khu miền Đông,
Ban QS miền Đông Nam
bộ)
- Trần Xuân Độ (1945-1946)
- Nguyễn Văn Trí (1946-1949)
- Phan Trọng Tuệ (1949-1950)
- Trần Văn Trà (1950-1951), (1976-1978)
- Phạm Hùng (1951-1954)
- Mai Chí Thọ (1958-1960)
- Nguyễn Việt Hồng (1961-1964)
- Nguyễn Ngọc Tân (1964-1967)
- Huỳnh Chí Mạnh
- Lê Đình Nhơn (1968-1971)
- Trần Nam Trung (1972-1974)
- Dương Cự Tẩm (1974-1975), (1980-1987)
- Lê Đức Anh (1978-1979)
- Nguyễn Xuân Hòa (1987-1993)
- Lê Thành Tâm (1993-2004)
- Nguyễn Thành Cung (2004-2010)
- Phạm Văn Dỹ (2010-nay)
d) Chính ủy QK Sài
Gòn-Chợ Lớn, Sài Gòn-Gia Định:
- Phan Trọng Tuệ (1948-1949)
- Trần Văn Trà (1949-1950)
- Nguyễn Văn Linh (1950-1954), (1966-1967)
- Nguyễn Hồng Đào (1961-1962)
- Võ Văn Kiệt (1962-1965)
- Nguyễn Văn Bảo (1965-1966)
- Mai Chí Thọ (1972-1973)
- Lê Thanh (1973-1974)
- Mai Văn Chút (1974-1975)
Câu 2: Những nét tiêu
biểu truyền thống vẻ vang của lực lượng vũ trang Quân khu 7?
1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của nhân dân trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào.
2. Quyết chiến, quyết thắng, chủ động khắc phục khó
khăn, dũng cảm sáng tạo trong chiến đấu và xây dựng, hoàn thành mọi nhiệm vụ
được giao.
3. Luôn “đứng mũi chịu sào”, chịu
đựng muôn vàn hy sinh, gian khổ trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và
bảo vệ Tổ quốc.
4. Đoàn kết nội bộ, gắn bó máu thịt với nhân dân.
5. Đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, chí
nghĩa, chí tình.
* Những nét tiêu biểu trên được thể hiện tập trung
trong 16 chữ: “Trung
thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng” của LLVTQK và nằm trong truyền thống chung của quân đội ta mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khái quát: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
[
Câu
3: Những địa danh lịch sử cách mạng nổi tiếng trên địa bàn
Quân khu 7?
1. TP.Hồ Chí Minh
- Hội trường Thống Nhất.
- Đền Bến Dược Củ Chi.
- Địa đạo Củ Chi.
- Bến Nhà Rồng.
- Mười Tám Thôn Vườn
Trầu.
- Ngã Ba Giồng.
- Láng Le - Bàu Cò.
- Chiến khu rừng Sác.
- Chiến khu An Phú Đông.
- Địa đạo Phú Thọ Hòa.
2. Tây Ninh
- Căn Cứ Trung ương Cục
Miền Nam .
- Địa đạo An Thới.
- Địa đạo Lợi Thuận.
- Khu di tích chiến thắng
Tua Hai.
-
Khu di tích Bời Lời.
-
Khu di tích Dương Minh Châu.
- Khu di tích Xứ Ủy Nam
Bộ.
- Khu di tích Ban An Ninh
Trung ương Cục miền Nam .
- Khu di tích Mặt trận
DTGPMN Việt Nam .
- Khu di tích Chính phủ
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam .
- Khu di tích Ban Tuyên
Huấn Trung ương Cục miền Nam .
- Khu di tích Ban tổ chức
Trung ương Cục miền Nam .
3. Bình Thuận
- Chiến khu Lê Hồng
Phong.
- Khu di tích trường Dục
Thanh.
4. Đồng Nai
- Chiến khu D.
- Khu di tích căn cứ Khu ủy miền Đông.
- Địa đạo Nhơn Trạch.
- Địa đạo Suối Linh.
- Căn cứ tỉnh ủy Biên Hòa
(Long Thành- Trảng Bom).
- Đình Phú Mỹ (xã Phú
Hội- Nhơn Trạch).
- Tòa Bố Biên Hòa ( trụ
sở Uy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai).
5. Bà Rịa- Vũng Tàu
- Khu căn cứ Minh Đạm.
- Nhà tù Côn Đảo.
- Nghĩa trang liệt sĩ
Hàng Dương.
- Di tích Cách mạng Nhà
Tròn.
6. Bình Phước
- Khu căn cứ
Tà Thiết ( Bộ chỉ huy Miền).
- Căn cứ Phú Riềng (huyện Phước Long) còn gọi là “Phú Riềng Đỏ” là nơi
ra đời chi bộ Đảng Cộng Sản đầu tiên vùng Đông Nam Bộ.
7. Bình Dương
-
Chùa Hữu Khánh.
- Nhà tù Phú Lợi.
- Đình Phú Long.
- Địa đạo Bến Cát.
8. Long An
- Vàm Nhật Tảo huyện Tân Trụ.
- Đám Lá Tối Trời huyện Tân Trụ.
- Đồn Rạch Cát huyện Cần Đước.
- Ngã tư Rạch Kiến huyện Cần Đước.
- Ngã tư Đức Hòa huyện Đức Hòa.
9. Lâm Đồng
- Khách sạn Palace .
- Căn cứ kháng chiến Khu VI - Cát Tiên.
- Di tích Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt.
Câu 4: Những
trận đánh, chiến dịch tiêu biểu của quân và dân Quân khu 7 trong hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược?
Trận La Ngà
Đây
là trận đánh
giao thông lớn nhất ở miền Đông
Nam bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp do lực lượng vũ trang Chi đội 10 Biên Hoà phối hợp với Liên quân 17 do (bộ đội Khu 7) thực hiện. Chi đội 10 lúc bấy giờ do Huỳnh Văn
Nghệ làm chi đội trưởng (đồng thời là Khu bộ phó khu 7), ông Nguyễn Văn Lung – chi đội phó – trực tiếp chỉ huy trận đánh.
Ngày 01 tháng 3 năm 1948,
sau một thời gian dài chuẩn bị, Chi đội 10 phục kích tấn công đoàn xe quân sự Pháp từ Sài Gòn đi Đà Lạt trên lộ 20. Tuyến phục kích trải dài trên 9 km từ cây số 104 đến 113 nay thuộc địa bàn Định Quán. Đây
là đoạn đường rải nhựa bằng phẳng nhưng uốn lượn quanh co khúc khuỷu, có nhiều đoạn dốc kéo dài. Hai bên đường là rừng già, có chỗ một bên là vực sâu, có độ dốc cao.
Lực lượng vũ trang cách mạng tập kết quân và bố trí phục kích trên ba mặt trận với tên gọi: A, B, C nhằm khóa đuôi, chăn viện và đánh thẳng vào đoàn xe quân sự địch. Trên các mặt trận được bố trí địa lôi.
Vào khoảng 15 giờ 12 phút, chiếc thiết giáp dẫn đầu đoàn
xe địch lọt vào trận địa phục kích. Quân cách mạng tấn công. Ba trái địa lôi và viên đạn chống tăng
gần như
nổ cùng một lúc tạo nên một cột lửa khói bao trùm mục tiêu. Chiếc thiết giáp bị đẩy hất lên nằm chắn ngang đường rồi bốc cháy. Tên chỉ huy đoàn xe cùng bộ phận thông tin chết tại chỗ. Hai chiếc xe chở lính hộ tống đi tiếp sau đâm sầm vào xác chiếc xe trước bắt lửa cháy luôn. Quân cách mạng dùng hỏa lực tiêu diệt đám lính sống sót và vận động xung phong tấn công trực diện đoàn xe địch trên lộ.
Số xe
địch đi
sau lọt hẳn vào trận địa và tiếp tục tiến lên, không hay biết về bộ phận đi
đầu đã
bị tiêu diệt. Khắp cả hai mặt trận B và C, quân ta tập trung hỏa lực vào những xe quân sự, chiến đấu quyết liệt với địch và nhanh chóng làm chủ trận địa. 16 giờ trận đánh kết thúc, 59 xe địch bị tiêu diệt hoàn toàn, 150 lính lê dương đi hộ tống, 25 sĩ quan Pháp, trong đó có đại tá De Sérigné (Đờ-xê-ri-nhê) - chỉ huy lữ đoàn lê dương thứ 13 và đại tá Patruit (Pa-tơ-rút) - phó tham mưu
trưởng thứ nhất quân viển chinh
Pháp ở Đông
Dương bị thiệt mạng, trung úy Joeffrey (Dép-phây) - chỉ huy đội hộ tống bị bắt sống.
Cùng với bộ đội Chi đội 10 và liên quân 17, lực lượng vũ trang địa phương tham gia trận đánh
rút về căn
cứ an toàn. Chiến thắng La Ngà gây một tiếng vang lớn trong cả nước ta, làm chấn động dư luận nước Pháp. Đây là một chiến thắng quân sự lớn nhất từ đầu cuộc kháng chiến đến lúc bấy giờ của lực lượng vũ trang Biên Hòa nói riêng, lực lượng vũ trang Miền Đông Nam bộ nói chung. Trận đánh giao thông La Ngà đánh dấu bước tiến vượt bậc về khả năng
phối hợp, tổ chức, trình độ chiến thuật, kỹ thuật của lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hoà. Các đơn vị tham gia trận đánh được vinh dự nhận Huân chương Quân công hạng II do Bác Hồ trao tặng.
Chiến dịch Bình Giã
Chiến dịch Bình Giã được chia làm hai đợt: Đợt 1 từ ngày 2 đến ngày
17/12/1964; Đợt 2 từ ngày 27/12/1964 đến ngày 3/1/1965. Lực lượng tham gia chiến dịch của ta gồm 2 trung đoàn bộ binh (761 và 762); Đoàn pháo binh 563 của Miền (Tiểu đoàn 35 súng cối 81mm và ĐKZ 75mm, Tiểu đoàn sơn pháo 75mm, Tiểu đoàn
41 súng máy phòng không 12,7mm); 2 tiểu đoàn bộ đội tập trung (800 và 500) của Quân khu 7; Tiểu đoàn
186 bộ đội tập trung của Quân khu 6, Đại đội 445 và một số trung đội của các huyện thuộc tỉnh Bà Rịa.
Kết quả, ta đã loại khỏi chiến đấu trên 1.700 (có hàng chục cố vấn Mỹ),
bắt gần 300 địch, trong đó diệt gọn Tiểu đoàn
thuỷ quân lục chiến 4, Tiểu đoàn
biệt động quân 33 và một chi đoàn xe cơ giới M113 (thuộc Thiết đoàn 1), đánh thiệt hại 3 tiểu đoàn khác và nhiều đại đội, bắn rơi,
phá hỏng 56 máy bay, (chủ yếu là máy bay trực thăng), phá huỷ 45 xe quân sự (phần lớn là xe M113, trong đó có 2 xe tăng M41), thu hơn 1.000 súng các loại và gần 100 máy thông tin.
Chiến dịch Đồng Xoài
Vào tháng 5/1965, Trung ương Cục, Quân ủy Miền quyết định mở chiến dịch Đồng Xoài với quy mô cấp tương đương sư đoàn tăng cường, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực tinh nhuệ của địch, hỗ trợ nhân dân đẩy mạnh chiến tranh du kích, nổi dậy phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng trên địa bàn các tỉnh Phước Long, Bình Long và
phía Bắc tỉnh Bình Dương; phối hợp trên địa bàn bốn tỉnh Lâm Đồng, Bình Tuy, Long
Khánh, Biên Hòa.
Tham gia chiến dịch Đồng Xoài, ta huy động 3 trung đoàn bộ binh (271, 272,
273), và tiểu đoàn 840 cùng lực lượng vũ trang địa phương có nhiệm vụ mở màn chiến dịch. Hướng phối hợp ở các tỉnh Lâm Đồng, Bình Tuy, Long
An, Biên Hòa, Bà Rịa, tại đây ta sử dụng 1 trung đoàn (thiếu 1 tiểu đoàn) và 1 tiểu đoàn của Quân khu 6, có nhiệm vụ đánh phá giao thông, phân tán lực lượng địch.
Chiến dịch Đồng Xoài diễn ra từ ngày 10/5 đến ngày 22/7/1965, được chia làm 3 đợt. Sau hơn 2 tháng chiến đấu oanh liệt, quân ta đã tiêu diệt 4 tiểu đoàn (d7 dù, d1, d2/e7, d4/e1), 24 đại đội, 6 chi đội cơ giới, 4 phân đội kỹ thuật, loại khỏi vòng chiến đấu 4.459 tên, thu
1.652 súng các loại, phá 390 súng và 60
xe cơ giới, bắn rơi 34 máy bay các loại, phá 76 ấp chiến lược, giải phóng 56 ngàn dân,
tổ chức được 180 du kích, vận động được 350 thanh niên tòng
quân, góp phần thúc đẩy chiến tranh du kích tại địa bàn lên một bước mới.
Chiến dịch Đồng Xoài đã cho thấy bước phát triển cao hơn chiến dịch Bình Giã, bộ đội chủ lực Miền đã có nhiều tiến bộ trong đánh tiêu diệt, đánh công kiên. Trình độ tổ chức và điều hành chiến dịch của đội ngũ cán bộ đã có tiến bộ rõ rệt, ta đã tiêu diệt được một bộ phận sinh lực trong đó có các đơn vị tinh nhuệ (tiểu đoàn 7 và 4). Trình độ hiệp đồng trong tác chiến vận động đã có tiến bộ nhất là lần đầu tiên ta đã đánh công kiên giành thắng lợi.
Chiến dịch Đồng Xoài là sự phát triển của nghệ thuật chiến dịch tiến công, trong đó phải kể đến nghệ thuật mở màn và câu viện. Trong chiến dịch này, ta đã khéo kéo kết hợp giữa đánh điểm và diệt viện, giữa đánh địch trong công sự với diệt địch ngoài công sự. Vai trò đánh điểm đã thể hiện cả hai chức năng: Vừa câu viện vừa diệt sinh lực địch trong công sự vững chắc.
Đánh bại cuộc hành
quân Gian-xơn xiti của quân Mỹ
Tháng 1/1967, với lực lượng 3 lữ đoàn Mỹ cùng 3 chiến đoàn Ngụy và cuộc
hành quân quy mô lớn nhất, dài ngày nhất mang tên Gian-xơn Xi-ti (Junction
City), tập trung lực lượng đánh vào vùng Bắc Tây Ninh, sát biên giới Việt
Nam-Campuchia. Lực lượng bao gồm: 31 tiểu đoàn bộ binh thuộc các Sư đoàn 1, 25,
4, 9 và các Lữ đoàn 196, 173 của Mỹ, 1 lữ đoàn thủy quân lục chiến, 1 liên đoàn
biệt động quân Quân đội Sài Gòn; 1 trung đoàn và 8 tiểu đoàn xe tăng, thiết
giáp, 4 trung đoàn pháo binh (tổng số khoảng 45.000 quân) với sự yểm trợ của 17
phi đoàn không quân các loại...
Chiến dịch diễn ra bắt đầu từ ngày 22/2, kết thúc vào ngày 15/4/1967 và
chia làm 2 đợt. Kết quả, ta đã bẻ gãy cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti của Mỹ.
Toàn bộ các mục tiêu mà quân địch đề ra đều không thực hiện được.
Ngược lại, ta loại khỏi vòng chiến đấu 14.233 quân địch (chủ yếu là quân
Mỹ), phá huỷ, phá hỏng 992 xe (có 775 xe tăng và xe thiết giáp), 112 khẩu pháo
từ 105mm trở lên, bắn rơi và bắn hỏng 160 máy bay (có 144 trực thăng), tiêu
diệt và đánh thiệt hại nặng nhiều đơn vị tinh nhuệ của Mỹ. Đây là thất bại lớn
nhất của Mỹ tính đến thời điểm đó.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nhận xét: "Cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti
là một cuộc hành quân lớn nhất của quân Mỹ vào vùng căn cứ Bắc Tây Ninh lại là
cuộc hành quân thua đau nhất, là cái mốc đánh dấu đỉnh cao sự thất bại của
chúng trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai trong âm mưu tìm diệt
của chúng".
Câu
5: Viết cảm
tưởng, hoặc kỷ niệm sâu sắc của bản thân, gia đình về người chiến sỹ Quân khu
7, về mối quan hệ đoàn kết gắn bó giữa LLVT Quân khu 7 với nhân dân và trách
nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay? (không quá 1.000 từ)?
Bài viết cần đạt được một số ý chính sau:
1. Cảm tưởng về hình ảnh người chiến sĩ
Quân khu 7
- Người chiến sĩ Quân khu 7 luôn kế thừa, phát huy bản chất
truyền thống cao đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ" trên các lĩnh vực chiến đấu, công tác, trong các mối quan hệ, trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế...
- Qua các kỷ niệm hoặc các cảm nghĩ đó làm ngời sáng lên phẩm chất Người chiến
sĩ Quân khu 7, phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ".
- Nâng cao lòng tự hào về truyền thống LLVT Quân khu 7, phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, cổ vũ động viên
mọi người hăng hái thi đua góp phần xây dựng đất nước, quê hương, xây dựng quân đội, LLVT Quân khu, đơn vị...
- Làm cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ thêm tin tưởng yêu mến, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc tham gia giữ gìn và phát huy truyền thống của Người chiến sĩ Quân khu 7, phẩm chất cao đẹp "Bộ đội Cụ Hồ" trong thời kỳ mới.
2. Trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN:
- Khẳng định lòng tự hào về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm trong lịch sử của dân tộc, quân đội ta, của quân
và dân Miền Đông Bộ, Cực Nam Trung Bộ.
- Thế hệ trẻ ngày nay thêm tin tưởng, yêu mến, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc tham gia giữ gìn và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
- Bối cảnh và xu thế phát triển của thế giới hiện nay, mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới có những
diễn biến phức tạp và khó lường.
- Những yêu cầu mới trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay, đòi hỏi thế hệ trẻ phải:
+ Về nhận thức:
+ Về hành động:
- Liên hệ đến công việc hiện tại đang làm góp phần gì trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Ghi chú : Các nội dung
trên đây chỉ có tính chất gợi ý tham khảo. Vì vậy, quá trình tổ chức đề nghị
Ban tổ chức, Ban giám khảo cuộc thi các cấp tiếp tục sưu tầm, hướng dẫn để cuộc
thi bảo đảm chất lượng.
Bài dự thi của Thượng tá Bs Trịnh Ngọc Chí,
dày 294 trang A3,
nặng 10,6kg,
có phát nhạc khi mở bài dự thi để đọc
Đây là bài dự thi 'nặng ký' đúng nghĩa với Ban Giám khảo